Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

Tà Áo Trắng


Hoàng Nhã

Tà Áo Trắng


... Nhớ ngày nao áo trắng
Trên nắng mai thướt tha
Ửng hồng đôi gò má
Khi anh nhìn người ta

Trưa nào anh lại đón
Đưa ra ngoài công viên
Nắng trưa chạm vào nón
Che trước ngực làm duyên

Buổi chiều anh đưa về
Muốn đường dài thêm ghê
Mắc cỡ em chẳng nói
Đường dốc cũng gồ ghề

Mẹ chẳng cho đi tối
Chúng mình ngồi trước nhà
Trăng tình soi ngập lối
Quỳnh đêm ấy nở hoa

Em vẫn áo dài trắng
Trăng đêm vẫn chiếu hòa
Quỳnh hương vẫn nở hoa
Còn anh sao lại vắng?




Được bạn: ND đưa lên
vào ngày: 14 tháng 12 năm 2011
source
Việt NamThư Quán
See More

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Đền thờ công chúa Huyền Trân



(VienDongDaily.Com - 02/12/2011)
Từ ngoài nhìn vào chính diện: Cổng, Đền và Điện thờ một hàng thẳng cao dần theo thế đất, cân đối với toàn cảnh, uy nghiêm trang trọng.
Bài và ảnh: Trần Công Nhung

Ngay chỗ ngả ba rẽ vào khu di tích Chín Hầm, đi thẳng là đến khu Trung Tâm Văn Hóa Huyền Trân (1), nơi có đền thờ Công Chúa và điện thờ Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông. Khu Đền và Điện thờ xây dựng trên một diện tích rộng 28 hecta. Tổng số vốn đầu tư khoảng 6,8 tỷ đồng
Lên Đền qua 4 trụ biểu cao lớn, chân có Lân chầu, chóp đắp hoa búp. Phối trí mẫu trụ đơn giản, chỉ có câu đối và chóp trụ thếp vàng còn toàn bộ màu xám xi măng, trông trang nhã và nghệ thuật. Hai trụ giữa có hai câu đối chữ Hán, hai trụ ngoài dịch âm:

Ô châu hoang địa biến tác Thuận Hóa thần kinh nhất cõi sơn hà cẩm tú
Nhân Tông doãn hứa thành vi đạo tái quyết sách thiên trùng ân nghĩa khắc minh.


Nguyễn Quan Hà dịch:
Cảm nghĩ Ô Lý đất xa, giờ đã kinh thành Thuận-Hóa, non sông một dải,
Ghi lòng Nhân Tông hứa cũ, thoắt hóa non sông kế sách, ân nghĩa muôn đời!


Hai câu đối trên hai trụ biểu

Bốn trụ biểu chia làm ba lối đi lát gạch đỏ, có dải bồn hoa ngăn cách, lối giữa rộng gấp mấy lần hai bên. Một lư hương sơn vàng cao cả mét đặt ngay lối đi chính. Từ ngoài nhìn vào chính diện: Cổng, Đền và Điện thờ một hàng thẳng cao dần theo thế đất, cân đối với toàn cảnh, uy nghiêm trang trọng. Sau lưng khu Đền là núi Ngũ Phong, rừng cây mượt mà với bầu trời xanh phơn phớt mây.


Đền thờ Công Chúa

Cảnh trí êm đềm lắng đọng, không bị bất cứ thứ gì quấy rầy (2), đây là giây phút thú vị dành cho những ai đi tìm danh lam thắng tích, tìm ánh hào quang của lịch sử nghìn năm. Tôi có một cảm giác thật lạ, như hãnh diện chứng kiến trang sử đẹp lung linh, trang sử mở rộng quê hương bằng một mối tình. Tôi bồi hồi lắng mình vào quá khứ để chiêm ngưỡng trọn vẹn vẻ đẹp của đền đài trước mặt và tự hào về một khúc sử ca bi tráng của tiền nhân. Nhưng chỉ trong giây lát, khi quay về với thực tại không khỏi buồn cho đất nước hôm nay. Ngày nay phụ nữ Việt Nam nổi tiếng khắp nơi nhưng vinh thì ít, nhục thì nhiều. Nhiều chị em không vì quốc gia đại sự mà chỉ vì miếng cơm manh áo, vì cha già mẹ ốm phải “hy sinh” làm một món hàng trao đổi kiếm sống để rồi không có ngày trở về. Lỗi vì ai!


Trụ biểu trước Đền

Qua sân ngoại Đền khá rộng, có bồn cỏ hoa hai bên nhưng chưa được cắt tỉa đúng cách, cây trang trí hoa viên còn non chưa thành hình, trước cổng vào Đền hai bên đặt mấy chiếc ché (lu) gốm nung, phải chăng muốn gợi lại đôi nét về Chế Mân? Nếu thế, tưởng nên sử dụng sản phẩm gốm Champa Ninh Thuận (3), thích hợp và ý nghĩa hơn.
Lên đền thờ công chúa Huyền Trần qua hai cổng. Cổng đầu tiên là Phước Sơn Môn, xây kiểu vọng lâu (cách điệu) hai tầng 8 mái, hoa văn họa tiết rất tinh tế do tay nghề của bậc thầy nghệ nhân cung đình thuở trước truyền lại. Vòm cổng cũng như những ô trống thượng lâu đều đắp Rồng Lân trang trí hài hòa. Nhìn kỹ chi tiết vảy rồng, móng rồng, râu rồng, toàn bộ được chăm chút vô cùng cẩn thận, không như những nơi khác tạc khắc tùy tiện cho có. Mặt tiền cổng vào là cả một tác phẩm nghệ thuật cổ điển. Nổi bật là sự kết hợp giữa màu sắc các công trình, màu khói nhang làm nền cho những nét cần tô điểm bằng màu vàng của nhà Phật, một phong cách trang nhã không khuấy động tâm tưởng người xem, trái lại đưa dần du khách vào cõi tĩnh lặng Thiên Thai, xa hẳn thứ màu sắc lòe loẹt xanh đỏ, thứ nghệ thuật đồng quê dân dã ồn ào.
Trong cổng là con đường lát đá lục lăng nhiều màu, hai hồ nước hai bên (chưa thả sen súng) có thành lan can. Tại sao lại lát đá màu, đủ hình dáng, đang ngang bằng đứng đắn nghiêm trang lại chen vào hình dáng xiên xẹo méo mó, làm hỏng sự nhịp nhàng về đường nét, màu sắc, của cấu trúc tổng thể. Thiết nghĩ, cứ dùng gạch thường hay gạch Bát Tràng mà hay. Năm 2008 công trình xây dựng Đền còn dang dở, trên thành lan can đặt nhiều chậu hoa đủ loại: Sống đời, bông giấy, bông trang, lá màu, thần tài, v.v., trang trí như ở một nhà hàng. Nay đã dẹp bỏ, theo tôi, nên đặt một số kiểng vừa (medium bonsai) sẽ tạo được nét cổ kính trầm mặc, sẽ mang lại cho du khách nhiều cảm xúc thi vị nhẹ nhàng hơn (4), phản ảnh nét văn hóa Á Đông.


Tam Quan

Tam Quan chính lên đền, rộng lớn, cũng dạng vọng lâu có 3 lối đi như thường thấy, ngoài nhìn vào có bốn chữ Hán: Huyền Trân Công Chúa Điện, trong nhìn ra cũng bốn chữ này viết bằng quốc ngữ. Trước Đền là sân lát gạch Bát Tràng, trưng bày nhiều cây cảnh tuy có lớn nhưng bình dân. Ở một khía cạnh nào đó không tăng thêm vẻ tôn nghiêm của ngôi đền. Việc trang trí một câu đối, một bức hoành phi hay một chậu kiểng đòi hỏi nhiều yếu tố nghệ thuật chuyên môn mới không làm hỏng giá trị đại thể của công trình.


Bàn thờ Công Chúa

Trong Đền thiết trí bàn thờ đầy đủ tam sự ngũ sự, liễn đối hoành phi, chạm khắc tinh xảo, sơn thếp rỡ ràng oai nghi đúng mức, không quá rườm rà (nhiều đền thờ miền Bắc thường phạm lỗi ôm đồm). Tượng Công Chúa trong trang phục áo dài, đầu đội khăn, nét mặt hiền từ, và đúng độ tuổi khi Công Chúa sang Chiêm Thành (nhiều nơi tạc tượng chỉ để cho có, đã vô hồn còn không đúng tuổi). Thông thường tượng thờ sơn son thếp vàng, tuy nhiên theo tôi, ở đây nếu được một nhà điêu khắc có tâm hồn (cỡ Lê Thành Nhơn làm tượng cụ Phan Bội Châu) tạc tượng Công Chúa bằng một khối gỗ thị đen tuyền, có lẽ thể hiện sâu sắc hơn về ý nghĩa cuộc đời và sự nghiệp của Công Chúa. Bởi sau khi hoàn mãn sứ mạng, Công Chúa đã trở thành vị Bồ Tát, không còn lưu luyến cõi Ta Bà, lẽ nào lại ham “lầu son gác tía”! Trên bàn thờ có bài vị chữ Hán, anh Thanh Dần trông coi Đền đọc cho tôi ghi:
“Phụng vị Khai Quốc An Dân, Huyền Trân Công Chúa Trai Tĩnh Trung Đẳng Tôn Thần”. Hai bên có hai câu đối chữ Hán thếp vàng:

Bồ liễu cô thân Nam hướng Đồ Thành mã đầu chướng vụ trùng hồi thủ
Cơ đồ vạn cổ Bắc cố phụng khuyết nhãn đề giang sơn tái cứu tham


Việt ngữ (Nguyễn Quang Hà):
Một thân sang chốn Đồ-bàn, đất cũ mãi nhìn về, mù che đầu ngựa
Muôn thuở mệnh vâng Bắc-khuyết, nước xưa luôn nhớ lại, lệ chắn lòng người.


Sau Đền thờ có đài lục giác, đặt một tượng Công Chúa trong bộ áo nhà tu màu trắng, dáng hiền từ đạo hạnh, tay phải cầm hoa sen búp, tay trái lần tràng hạt, như ngài Bồ Tát Quán Thế Âm (chỉ khác hoa sen thay vì thủy bình).
Đền thờ Huyền Trân Công Chúa tại thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế có thể nói là một công trình lịch sử xứng đáng với công trạng của Công Chúa. Nghệ thuật kiến trúc thời Trần được thể hiện khá rõ nét. Hy vọng với ngày tháng, Đền sẽ sáng đẹp hơn, thu hút du khách mỗi năm mỗi nhiều, hài hòa với bao nhiêu đền đài lăng tẩm cố đô, những chứng tích lịch sử văn hóa nước nhà tồn tại hàng trăm năm qua. Tuy thời cuộc có thịnh suy nhưng giá trị lịch sử vẫn không thể bị xóa nhòa chối bỏ, nhất là đối với người con xứ Huế. Đến chiêm ngưỡng đền thờ Công Chúa Huyền Trân, tôi cảm thấy hãnh diện về một trang sử của nước nhà. Mong sao đừng để Đền đi vào vết xe đổ của những di tích khác, xây dựng chỉ để khai thác kinh doanh, vô tình làm phai mờ nét son lịch sử, thiệt thòi cho con cháu mai sau.

Tháng 9 - 2011

(1) Người làm tuyên truyền hay dùng chữ nghĩa lòe thiên hạ. Đã không ít người nhận xét về điều này. Văn hóa và nghệ thuật đôi khi bị cưỡng bức, lợi dụng cách quá đáng. Biểu ngữ văn minh, văn hóa, thân thiện… căng đỏ đường nhưng cứ nhìn lối chạy xe, sinh hoạt đường phố thì biết như thế nào. Một người bị tai nạn, người đi đường xúm hôi của, không ai giúp nạn nhân một tay (tin báo). Như vậy gọi là văn hóa?
(2) Thường các điểm du lịch người bán hàng rong chèo néo quấy rầy khách rất khiếm nhã.
(3) Làng gốm Bàu Trúc đã in.
(4) Có lẽ do trở ngại trộm cắp không thực hiện được (dù đã được tiếng một nước “đạt chuẩn văn hóa”).
Bia Ký: Đền Công Chúa Huyền Trân
Thường nghe: Người có công đức lớn thì được phong thần, thờ phụng. Công đức càng lớn, đẳng thần càng cao. Sống tận lực vì nước, thác hiển thần hộ quốc an dân. Người như vậy, thần như vậy ắt được lập đền, dựng bia đá ghi công tích đặc biệt, lưu truyền việc tốt đời sau.

Công chúa Huyền Trân sinh năm Đinh Hợi, 1287, là ái nữ của vua Trần Nhân Tông và Khâm Từ Hoàng hậu, quê làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định. Từ lúc thiếu thời đến tuổi cài trâm, Công chúa nổi tiếng thiên hương, tư chất thông minh, hiếu nghĩa vẹn toàn, ví như huyền ngọc quốc bảo.
Mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ, 1306, thực hiện lời hứa của vua Nhân Tông, lấy hòa hiếu với lân bang làm căn bản, Huyền Trân sang Chiêm quốc làm dâu, trở thành Hoàng hậu Paramesvari. Đáp lại mối thâm tình ấy, trước đó mấy tháng, vua Chế Mân đã cắt đất hai châu Ô, Lý dâng lên nhạc phụ Thượng Hoàng làm lễ dẫn cưới. Kể từ đấy, hai châu này được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, tức vùng đất phía nam sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị, đến bờ bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. (1)
Mùa hạ, tháng 5 năm Đinh Mùi, 1307, Chế Mân qua đời. Tháng 9, người Chiêm sang nước ta dâng voi trắng, báo tang. Theo tục của Chiêm Thành “hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào đàn thiêu để chết theo”. Vua Anh Tông biết vậy, sợ Công chúa bị hại; tháng 10, vua sai đại thần sang Đồ Bàn viếng, mong cầu giải cứu Huyền Trân.
Mùa thu, tháng 8 năm Mậu Thân, 1308, Công chúa về tới Thăng Long.

Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, năm sau Công chúa xuất gia đầu Phật ở núi Trâu Sơn, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Dưới sự ấn chứng của Quốc sư Bảo Phác, Công chúa thọ Bồ tát giới, được ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi, 1311, thừa mệnh Bổn sư, Hương Tràng xuống núi, cùng người thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y, đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản, nay thuộc tỉnh Nam Định, lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Thấm thoắt mấy hạ, duyên lành phổ độ chúng sinh, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộn Sơn, tên chữ Quảng Nghiêm Tự.
Trụ trì chùa Nộn Sơn, Ni sư khiêm nhẫn chăm lo Phật sự, tạo lập ruộng vườn, giáo hóa cho lớp đồng ấu, làm thuốc cứu chữa dân lành. Những lúc nhàn rỗi, Ni sư thường đến tận các thôn ấp trong vùng, khuyến dân thực hành phép tu Thập thiện... Công đức vô lượng của Ni Sư được nhân dân hết lòng kính ngưỡng.
Mấy chục mùa kiết hạ, đến khi đắc pháp, mọi sự viên thành. Ngày 9 tháng giêng năm Canh Thìn, 1340, Ni sư xã báo an tường, thảnh thơi trở về cõi Tịnh. Dân chúng vô cùng thương tiếc, tôn làm Thần Mẫu, lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn.

Một đời Công chúa tận sức với nước, khi thác hiển linh phò trợ giúp dân. Chính vì vậy mà các triều đại sau đều sắc phong Công chúa làm thần hộ quốc. Vào đầu thế kỷ XX, các vua nhà Nguyễn lại ban cho Công chúa chiếu báu nâng bậc tăng thêm là “Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần”.
Nay vừa gặp vận: Mùa xuân Bính Tuất, 2006, kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế, nhớ ơn công đức của Huyền Trân năm xưa dấn thân ngàn dặm đi mở nước; thừa lệnh chính quyền, hợp sức lòng dân, Công ty Du lịch Hương Giang đã khởi dựng đền thờ Công chúa, vừa đúng một năm thì an vị tượng thần.
Ngôi đền tọa lạc về phía nam sông Hương, cách kinh thành Huế chừng vài dặm, tương truyền là nơi danh thắng phước địa. Kiến trúc theo lối truyền thống: trụ biểu vươn cao, nền móng kiên cố, lương đống vững chắc, điện thờ tôn nghiêm. Phía sau, thế núi Ngũ Phong trấn giữ. Phía trước, dòng tiểu khê quầy thành hồ Trường Xuân soi bóng nhật nguyệt, sơn mạch tả hữu trườn xuống như hai bức trường thành. Nội điện đặt tượng Huyền Trân, hậu điện phối thờ các bậc công thần mở nước. Sân sau xây lầu bát giác, dựng tượng Ni sư, mở vườn Bồ Đề; sau nữa là điện Trúc Lâm, nhà đọc sách, tượng Di Lặc, miếu Sơn thần, Thủy thần, gác chuông Hòa Bình… tất cả tạo thành một trung tâm văn hóa tâm linh ở chốn Thiên Thai…
Ngẫm lại, thời gian tạo lập ngôi đền không thể sớm chiều. Nhờ uy lực của thần và cũng nhờ ở sức người tỏ niềm tri ân mới làm nên.
Thì ra, từ xưa đến nay, bậc hiền nhân dày công nghiệp với đất nước ắt được phụng thờ, chưa hề bị lãng quên bao giờ.
Những lần đến dâng hương, nghe chuyện nhiệm mầu ở chốn Bồng Lai này khiến nhiều người lấy làm lạ. Phải chăng: Núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng. Có lẽ nơi đây, Thần nữ đã thị hiện. Bởi vậy, ngôi đền mới dựng mà đã linh ứng lan truyền.
Nghĩ rằng thần thiêng vốn do tú khí tinh anh của đất trời hun đúc, ngầm phò giúp cho cơ đồ xã tắc, giữ nền phúc lớn, ngày mỗi thêm xán lạn vững bền.
Trước đền Công chúa Huyền Trân, kẻ hậu sinh nguyện trọn lòng thành, đốt nén tâm hương, kính soạn bia ký này.


Ngày tốt, trọng thu Đinh Hợi
Phụng soạn Phụng lập

Dương Phước Thu Công Ty Du Lịch Hương Giang

(1) Không hiểu tại sao bia ký lại ghi địa danh 2 châu Ô, Lý từ Quảng Trị vào tận sông Thu Bồn Quảng Nam? Trong khi các nguồn sử liệu khác đều ghi Quảng Trị và Thừa Thiên (!)



Bia ký và Lễ hội


Bồ Tát Hương Tràng

Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 12, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng.
Độc giả muốn có sách nguyên bộ 12 tập (discount), xin liên lạc:

Tòa soạn Nhật Báo Viễn Đông, 14891 Moran Street, Westminter, CA 92683.
Điện thoại: 714-379-2851.
Những sách khác, liên lạc tác giả qua P.O. Box 254, Lawndale, CA 90260. Website: www.ltcn.net

source
VienDongDaily

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Cảnh biển Cam Ranh


Cam Ranh ngày nay
(VienDongDaily.Com - 28/10/2011)
Cam Ranh tiếng là thành phố (loại 3) nhưng xe cộ không bao nhiêu, chỉ trục lộ chính, QL 1A thỉnh thoảng có xe đường dài chạy qua, gây ồn ào chốc lát.
Bài và ảnh: Trần Công Nhung


Cảnh biển Cam Ranh

Hôm sau tôi dậy sớm, chạy vào cầu Trà Long phía nam thành phố Cam Ranh. Sáng tinh mơ, thành phố nào cũng tương đối yên tĩnh mát mẻ. Cam Ranh tiếng là thành phố (loại 3) nhưng xe cộ không bao nhiêu, chỉ trục lộ chính, QL 1A thỉnh thoảng có xe đường dài chạy qua, gây ồn ào chốc lát. Tôi dừng nơi cầu, chụp mấy tấm ảnh của xóm chài bên hữu ngạn (nay một số biến thành quán nhậu) rồi quay lại rẽ xuống con đường nhỏ về hướng biển. Hình ảnh chung chung sinh hoạt buổi sáng, nơi nào cũng giống nhau: Cà phê ăn sáng. Đa số quán lề đường, hoặc hàng gánh bày trên vỉa hè: Bún riêu, bún bò, cháo… Dân cà phê thì dài dài hai bên hàng phố. Phải phục người mình, điểm tâm bát bún, uống ly cà phê mà nửa ngày chưa dứt, nhưng ngả tư đèn đỏ còn 10 giây đã nhấn còi giục nhau chạy. Thế giới ít có dân tộc nào nhàn nhã như người Việt Nam. Ăn uống, buôn bán, từ trên lề xuống lòng đường, họp chợ ngay bảng cấm, chẳng ai nói gì. Nếu có chú công an cảnh sát nào rắn mắt đi qua thì người dân lại “dấm dúi” tí ti là xong. Luật pháp Việt Nam “linh động dễ sống” chứ không rạch ròi cứng ngắc như xứ tư bản.
Ra đến mé biển mới thấy hết những sinh hoạt của dân chài, nhà cửa chống đỡ xiêu vẹo, bến bãi chẳng ra bến bãi, vừa bến thuyền vừa bến rác. Nhưng tách ra, cảnh vẫn đẹp nhờ “chất liệu” đơn sơ mộc mạc của đời sống. Một góc nhà sàn soi bóng lung linh, đôi ghe câu neo nghỉ gần bờ, ngoài xa vài ba tàu đánh cá, đến hậu cảnh dãy đảo xanh, nền trời mấy vệt mây mỏng dài chéo góc. Nghệ thuật không cần cao sang, đơn sơ mà gợi cảm.
Đi lần về phía có một bãi đóng tàu, trông lộn xộn không chuyên nghiệp tí nào. Đây là bãi đóng tàu tư nhân: Bà Né. Nhiều tàu đánh cá nằm ụ mà không thấy thợ thầy làm việc. Ra phía ngoài nữa là cầu tàu, loại tàu 8 máy đậu san sát. Bạn đánh cá phần lớn là trai tráng khỏe mạnh, họ đang túm tụm trên mui tàu uống cá phê. Tôi hỏi chuyện một thanh niên:
- Tàu Cam Ranh có đánh cá xa bờ?
- Dạ có, xa bờ mới có cá.
- Có khi nào bị “tàu lạ” bắt chưa?
- Dạ, không ra Hoàng Sa nên không bị. Tàu Quảng Ngãi bị nhiều vì họ đánh sát Hoàng Sa.
- Tàu mình thường đánh cá gì nhiều nhất?
- Cá chuồn, cá thu.


Bến cá mồi

Nhìn tàu đánh cá lớp lớp hàng hàng tôi không nghĩ Cam Ranh lại nhiều tàu như thế mà toàn tàu lớn. Thì ra có cả tàu Quảng Ngãi vào neo. Tuy nhiều tàu cập bến nhưng không có cảnh mua bán như ở cầu tàu Cửa Bé hay Lương Sơn (Nha Trang). Tôi trở lên QL1A ra xem cảng Cam Ranh. Trên đường ra cảng lại gặp một bến cá khá tấp nập ồn nào, ngay trên đường Nguyễn Trọng Kỷ. Tôi lấy làm lạ, không phải bến tàu sao cá đâu tuôn về nhiều thế mà toàn cá nhỏ. Xe ba gác, xe máy thồ, xe đạp, xích lô…bạn hàng xúm nhau cân mua đưa lên xe, họ chen nhau, mặc cả, la lối huyên náo. Màu sắc những vỉ nhựa đựng cá vàng đỏ thật vui mắt. Ngay đó có nhà máy xay nước đá để cung cấp cho con buôn ủ cá trước khi chở đi. Tôi quan sát, chụp ảnh chẳng ai để ý, tôi hỏi người đứng cạnh:
- Sao đây không phải bến tàu, cá đâu nhiều vậy, mà không thấy cá lớn.
- Đây là cá tạp nham các tỉnh chở về bán cho những nhà nuôi cá.
- Họ nuôi cá gì?
- Cá chẻm, cá mú, cá rô Phi, cá lóc.
Cam Ranh ngày nay có hẳn một ngành nuôi cá công nghiệp. Nhưng nuôi cá cho ăn cá thế cũng tốt hơn thức ăn tăng trọng. Bây giờ nhà chăn nuôi nào cũng dùng thực phẩm tăng trọng thúc ép heo, gà, cá lớn nhanh. Người ăn vào cũng gián tiếp ảnh hưởng, cứ nhìn những trẻ con mới 8, 9 tuổi mà thân hình đã mập phì là biết.

Phố Đá Bạc

Trước khi rẽ qua đường vào Cảng Cam Ranh, có phố Đá Bạc, tôi không ngờ con phố vắng vẻ buồn hiu như vậy, cứ như đường phố thời chiến tranh. Vắng đến rợn người, tôi chỉ chạy một đoạn rồi quay lui ra Cảng. Vào cổng tôi bị “bảo vệ” chận lại. Người ngoài không được phép vào. Tôi hỏi đây không phải khu quân sự sao cấm? Có bảng cấm đâu? Người gác cổng gầm gừ “Cảng sản xuất cấm vào”. Nhớ mấy tên gác siêu thị (Sài Gòn) đánh học sinh mềm xương, tôi im lặng lui xe. Biết đâu trong đó không sản xuất, mua bán thứ quốc cấm. Tránh cho yên thân.


Quán “Gà Chỉ”

Tôi đi tìm quán “gà chỉ”. Lời đồn “gà chỉ” là món gà đặc biệt của Cam Ranh. Thực tình thì tìm cho biết chứ không hẳn chuyện ăn uống. Mấy năm trước, tôi đã đi tìm thưởng thức món gà nấu lá giang ở tận xã Ninh Quang huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa). Đi để biết cảnh biết người chứ món ngon thì chưa chắc đã có gì hấp dẫn. Do lời đề nghị của một tay văn nghệ địa phương, tôi cứ tưởng chỉ hai người, anh lại kéo thêm cô bồ. Lúc ghé trạm xăng anh nói nhỏ vào tai tôi: “Đổ cho cổ bình xăng cho cổ vui”, ra quán Gió gọi thêm một bạn, ra Ninh Hòa rủ thêm hai ông (ngành văn hóa) kéo vào quán cà phê. Ra đi 2 người giữa đường thành 6, đến nơi không biết sẽ bao nhiêu. Đây cũng là kiểu “đậm đà bản sắc dân tộc”. Nhưng gà lá giang cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ thêm vị chua chua của lá rừng mà thôi. “Gà Chỉ” Cam Ranh không biết ra sao. Hỏi đường một ông xe ôm, ông đòi 10 nghìn dẫn đi. Chẳng phải kỳ kèo, nhanh cho được việc. Chạy theo xe ôm chưa được 5 phút, đã thấy quán “Gà Chỉ”. Một đoạn dài trên đường Lê Duẩn, con đường như đất đồi mới khai hoang lại nhiều quán nhậu. Hầu như các quán đều chung món gà chỉ. Tôi vào quán Hai Lễ, quán vắng khách, mỗi bà già ngồi dưới góc xoài. Nghe tiếng tôi hỏi, có chị đàn bà trong nhà bước ra, chị cho biết thế nào là “Gà Chỉ”. Chị đưa tôi ra xem chuồng gà vườn sau, chị nói “Gà nuôi thả trong vườn, mỗi ngày bắt nhốt chuồng mươi con, cho ăn thóc. Khách tùy thích lựa, chỉ con nào bắt làm thịt con đó”. Tôi cười: “Gà chỉ nghĩa là chỉ con gà mình thích”.


Xóm chài

- Rồi nấu những món gì?
- Vài món đơn giản như gà hấp, nướng, nấu lá giang, luộc, bóp gỏi, chiên mắm, nấu cháo, rang muối… Tùy khách yêu cầu.
- Thời gian làm lâu mau? Giá cả thế nào?
- Từ 20 đến 30 phút. Con 1kg 500g làm thành món giá 195 ngàn.
- Nhanh vậy làm sao kịp?
- Mỗi người một khâu, nhanh thôi.
- Như vậy, muốn ăn gà phải vài ba người?
- Dạ.
- Chị biết quán nào có món gà làm bán sẵn chỉ dùm.
- Chú ra quán Vui ngoài QL 1 có cơm gà cũng ngon. Quán nớ đông khách.
Nghe người đàn bà nói giọng Huế, tôi hỏi thêm trước khi đi:
- Chị vô đây từ hồi nào?
- Đây nhà người em, nó vô từ năm 75.
- Một nhà mà đất rộng quá vậy?
- Hồi đó rừng rú có ai mô. Muốn khai hoang mấy không được.
- Người Huế quanh đây nhiều không?
- Không nhiều, họ vô cả Long Khánh, lên Buôn Mê Thuộc. Ở Huế thì mần chi sống nổi.


Tàu đánh cá

Quán Vui phía ngoài khách sạn Thạnh Mỹ một đoạn. Quán không lớn, đông khách. Dĩa cơm, một phần tư con gà giá 85 nghìn, ăn được nhưng tính theo giá “gà chỉ” thì hơi đắt. Cam Ranh là phố biển mà nổi tiếng lại là món gà. Tiếc là chưa có dịp thực sự nếm món “gà chỉ” xem ra sao. Đôi khi thiên hạ ưa đồn đãi cho có chuyện chứ ngon thì đã chắc gì. Có điều tuy đã nâng lên “thành phố loại 3” nhưng Cam Ranh chưa thoát ra khỏi nếp sống của làng chài, nhất là vấn đề vệ sinh. Nhà cửa lem nhem đường phố rác bẩn bụi bặm rất tệ. Phố Đá Bạc là hình ảnh tiêu biểu. Dẫu sao, đến Cam Ranh, có nơi để tìm xem, có món để thưởng thức cũng là điều thú vị rồi.

Tháng 7 - 2011

Sách mới: QHQOK tập 12, đã phát hành đầu tháng 10-2011.
Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 12, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng.
Độc giả muốn có sách (discount 50% 10 tập đầu, 126 Mỹ kim luôn cước phí gửi), xin liên lạc: Tran Cong Nhung, P.O. Box 254, Lawndale, CA 90260.
Điện thoại: (310) 978-4182 - Email: trancongnhung@yahoo.com - Website: www.ltcn.net
source
VienDongDaily

Làng nghề Sơn Đồng





(VienDongDaily.Com - 04/11/2011)
Sau khi thăm làng nghề Lai Xá tôi theo đường 32, chạy tiếp chừng cây số đến ngã tư Trôi (1), rẽ trái là vào làng Sơn Đồng.
Trần Công Nhung/ Viễn Đông

Sau khi thăm làng nghề Lai Xá tôi theo đường 32, chạy tiếp chừng cây số đến ngã tư Trôi (1), rẽ trái là vào làng Sơn Đồng.
Tên làng Sơn Đồng song nghề lại chuyên điêu khắc gỗ. Xưa nay trùng tu tái tạo chùa đền, nhà cổ, đều rước thợ Hà Tây, thợ Huế. Riêng ngành điêu khắc tượng Phật Thánh và chạm đồ thờ là nghề truyền thống của dân Sơn Đồng (2).


Cổng làng Sơn Đồng

Con đường vào làng Sơn Đồng rộng như quốc lộ nhưng chỉ được một đoạn hơn trăm mét ngang qua UBND huyện Hài Đức, còn thì đường hẹp bằng nửa, lại ổ gà ổ vịt, chưa thoát khỏi hình ảnh một làng xưa, nhiều cổng cổ còn tìm thấy đầu các lối rẽ vào làng. Qua khỏi trụ sở huyện, đã thấy một hai nhà tiện gỗ bên đường. Nhà cửa mở toang, thợ thầy làm ngay phía trước. Thấy bảng hiệu ghi thợ Đồng Kỵ Bắc Ninh, tôi thắc mắc hỏi người thợ trẻ, anh bảo “Sơn Đồng bác chạy vào mấy cây nữa”. Mấy cây số nhà thưa thớt, có chỗ nền nhà bên hồ nước, cảnh quê mà hay. Đây là trục lộ chính qua làng, vào gần ngả tư Sơn Đồng thì nhà thợ tiện san sát hai bên đường. Tiếng đục đẽo lách cách nhà nọ sang nhà kia. Một thứ âm thanh rộn ràng mà không ồn ào. Đa số thợ ở tuổi thanh niên, sức lực dồi dào rất hợp với nghề vất vả chân tay. Hỏi một hai người thợ về sự tích làng nghề, họ tỏ ra không hiểu lắm, kế nghiệp cha ông qua nhiều đời, họ chỉ biết sản phẩm của làng đã có từ hàng trăm năm nay. Những tượng Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, tượng ông Thiện, ông Ác, tượng La Hán, kiệu bát cống, những bức hoành phi, câu đối, cuốn thư.... Nói chung nghề tạc tượng thờ đã mang lại vinh quang cho làng, đã có nhiều nghệ nhân từng được vua Khải Định (1916-1925) ban thưởng.

Mỗi năm, làng làm ra hàng nghìn sản phẩm xuất đi khắp các miền Trung Nam Bắc, và có cả một số sản phẩm đưa ra nước ngoài. Dừng lại ở một cửa hàng đồ thờ, tôi hỏi ông chủ:
- Thưa bác, hàng đặt của khách hay hàng bày bán?
- Những đồ tế tự, tượng Phật lớn phải có người đặt, hàng nhỏ thì làm sẵn để bán.
- Nhà bác có bao nhiêu thợ chuyên làm?
- Mười thợ, thợ làm chỗ khác, đây là nơi trưng bầy sản phẩm.
- Sản phẩm thường làm bằng gỗ gì hả bác?
- Nhiều thứ, mít, gụ…
- Như cái uốn thư này khi hoàn tất giá bao nhiêu?
- Khoảng 8 – 9 triệu.
- Sơn Đồng có đền thờ Tổ nghề chứ bác?
- Có đấy, ông lên ngả tư trên, rẽ phải chừng trăm mét, có đền thờ.

Tôi đi ngay, đã quá trăm mét vẫn không thấy đền Tổ làng nghề, chỉ có nhà liền nhà, bày tượng, đồ thờ ra sát lề đường. Một hai nhà kê nguyên pho tượng Phật cao cả 2 mét trước cửa nhà, tượng đã đổi màu mốc bạc. Có lẽ khách hàng đặt rồi bỏ chăng. Lối buôn bán của người mình, thứ gì cũng muốn phô ra đường, trái với người phương Tây, mọi thứ bày trong nhà kín đáo, không quấy rầy khách đi đường. Lúc mới đặt chân lên đất Mỹ tôi khá ngạc nhiên về lối buôn bán của họ. Đi trên đường phố tưởng như phố không người, nhà nào cũng kín cửa, chỉ có bảng hiệu. Vào trong mới thấy hàng hóa đầy ắp cửa hàng.
Chợt thấy cổng ngôi miếu nhỏ bên đường tưởng đền thờ Tổ, trên cổng có đề: “Ai về Tam Phủ dừng chân trình ngài Quan Án”. Chữ mới tinh mà cổng thì rõ xưa. Người đi đường cho biết đó là mộ Quan Án Sát ngày trước ở hạt này. Nhìn qua song cửa sắt thấy một bi ký khá cao lớn, phong đen chữ Hán trắng rất nét, nhưng chung quanh toàn đồ tạp nham phế thải bừa bãi, chẳng ai trông nom. Tôi hỏi một nhà bán đồ thờ đền Tổ làng nghề, họ chỉ ngay ngõ bên kia đường vào một trăm mét. Tôi ngờ ngợ như đi vào chùa, cuối có một cổng trên đắp 3 chữ Tàu. Không nhận ra dấu hiệu đền thờ, tôi quay ra đường cái hỏi lại, một bà già bảo: “Đền ở sau lưng chùa, ông cứ đi qua cổng ấy rồi ra sau, có người trông Đền”. Quay lại, đẩy cửa bước vào, không thấy ai nhưng có con chó buộc bên góc tường sủa inh tai. Mãi mới có một bác già ra tiếp.


Tượng Phật đồ thờ

- Thưa bác, đây là đền thờ Tổ làng nghề, bác là Thủ Từ giữ Đền?
- Vâng, tôi Nguyễn Xuân Dừng, trông Đền, mời ông vào.
Bác thủ từ có vẻ mau mắn và hiếu khách, bác trả lời tất cả những điều tôi thắc mắc, bác cũng tỏ ra rành rẽ mọi sự tích về ngôi Đền. Bác cho biết: “Đền có từ thời Lê đã hơn nghìn năm. Lúc đầu chỉ là ngôi miếu tranh tre, qua thời gian được trùng tu tôn tạo lớn như hôm nay”. Hỏi về gốc gác Thánh Tổ, bác cho biết Thánh sinh năm 960, năm 20 tuổi, ngài xếp bút nghiên lên đường giúp vua Lê Đại Hành đánh quân Tống. Sau khi đuổi được giặc, nhà vua mời Ngài vào kinh giúp việc nước, Ngài từ chối và xin về địa phương này dạy dân cấy lúa nước, trồng dâu nuôi tằm và nghề mộc. Trước khi đi đánh giặc ngài làm thầy dạy chữ Hán. Năm 986 Ngài bay về Trời, như Thánh Gióng thuở trước. Ngài có công lớn, được Vua Lê Đại Hành phong: Lê Tướng Công Nguyên Soái Thượng Đẳng Thần. Hữu Công Ư Dân. Thánh cũng là người truyền dạy chữ Hán cho dân làng.
Bàn thờ nhà tiền tế sơn son thếp vàng, nét chạm trổ tinh vi đúng là sản phẩm của làng nghề Sơn Đồng. Trên bàn thờ bày biện đơn giản cân phân, không quá rườm rà hoa quả lọ bình. Hai Hạc vàng cao lớn chầu hai bên. Nghi môn cẩn thếp vàng sáng sủa. Tôi nhờ bác Thủ từ thắp nhang để chụp tấm hình. Khi tôi ngõ ý xin vào hậu điện, nơi thờ Tổ, ông định mở cửa thì bà vợ nhảy xổng vào cản. Từ lúc tôi vào hòi chuyện bác thủ từ, bà này cứ theo dõi và hay ngăn chặn vô cớ. Không hiểu bà có ý gì nhưng trông điệu bộ thật khó ưa. Có lúc ông chồng gắt lên: “Thì bà đi lo chuyện của bà”. Một nơi di tích mà cung cách của người coi ngó như vậy thật đáng tiếc. Khách ra về làm sao không khỏi có lời than phiền. Dẫu sao làng nghề truyền thống Sơn Đồng cũng được tiếng là nơi giữ gìn và phát triển những tinh hoa văn hóa trong nghệ thuật điêu khắc của nước nhà. Trải qua bao thăng trầm sóng gió cùng với lịch sử dân tộc, làng nghề Sơn Đồng cho đến ngày nay vẫn là nơi được lựa chọn đầu tiên khi mọi người cần đến những hoành phi, câu đối, những tượng phật, đồ thờ….

Theo sử liệu, Sơn Đồng là một làng khoa bảng, với tám tiến sĩ qua các triều đại trước đây. Trong đó, nổi danh nhất là tiến sĩ Nguyễn Viết Thứ, từng làm đến chức Tham Tụng (Tể Tướng) dưới triều Lê Trung Hưng. Làng nổi tiếng với nghề làm hoành phi, câu đối. Đâu đâu cũng thấy chữ Hán, chữ Nôm trong các xưởng mộc. Ngày nay Sơn Đồng có lớp Hán Nôm của thầy giáo Vết rất được hâm mộ. (3)
(Kỳ tới: Chùa Diên Phúc và Thánh Tổ Đào Trực)

Tháng 8 - 2011

(1) Hà Nội, Sài Gòn thường gọi các ngả tư bằng tên thị trấn, phường… Ngả tư Trỗi, ngả tư Sở, ngả tư Vọng, ngả tư Bảy Hiền, ngả tư Bình Phước, ngả tư Gò Mây.
(2) Làng Sơn Đồng huyện Hoài Đức trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Làng Nhị Khê, quê của Nguyễn Trãi cũng làm nghề tiện, nhưng không tinh xảo chỉ chuyên về bát nhang, độc bình, đồ thờ nho nhỏ. Đọc “Ao Huê Trại Ổi” trang 101, QHQOK tập 10.
(3) Ông đồ Vết tên thật là Nghiêm Quốc Đạt. Ông vốn dòng dõi Nho gia, ông nội là thầy đồ có tiếng. Ông học chữ Hán Nôm từ chính ông, cha mình. Không một ngày học trường sư phạm, nhưng ông Vết vẫn được người làng gọi là ông giáo, ông đồ. Ông giáo Vết nổi tiếng cả vùng, bởi ông là người duy nhất dạy chữ Hán Nôm ở huyện Hoài Đức, và cả mạn phía tây của Hà Nội. Hơn nữa, lại dạy miễn phí. Hiện giờ, lớp Hán Nôm có 70 học trò, mỗi tuần đều đặn hai buổi học. Tuổi đã ngoại thất thập, ông không chịu nghỉ ngơi. Được hỏi, ông Vết tâm sự: "Tôi thấy bọn trẻ bây giờ có điều kiện học hành hơn trước. Nhưng nhiều đứa không biết đến gia phong, không biết kính trên nhường dưới. Tôi mở lớp dạy Hán Nôm để dạy chữ, đồng thời, để dạy đạo làm người cho các cháu". Năm 2006, lớp học của ông Vết ra đời, với tên gọi lớp học Hán Nôm Sao Khuê. Truyền thống hiếu học, truyền thống khoa bảng của đất này được khơi dậy. Rất nhanh chóng, lớp Hán Nôm đã thu hút khoảng 40 học trò. Ban đầu, môn sinh theo học phần lớn là người Sơn Đồng, dần dần, có cả người nơi xa mấy chục cây số cũng đến học.
Lớp học Sao Khuê đủ hạng tuổi, cụ già tóc bạc ngồi chung với trẻ tiểu học. Học trò cao tuổi năm nay đã 82, học trò lớp tuổi từ 10 đến 12 khá đông. Khác nhau về lứa tuổi, nhưng lớp học Hán Nôm Sao Khuê luôn diễn ra trong tiếng cười rộn rã. Đấy là cái tài của người dạy học. Những lễ Tết, ông giáo Vết tổ chức cả đoàn "ông đồ nhí" đi viết chữ tặng mọi người. Những cô, cậu học trò chừng 14, 15 tuổi, đã biết bày mực tàu, giấy đỏ, nắn nót những chữ "Phúc", chữ "Thọ"... mừng tuổi ông bà, bố mẹ. Sau năm năm, lớp Hán Nôm Sao Khuê đã có 420 môn sinh tốt nghiệp.


Sách mới:
QHQOK tập 12, đã phát hành đầu tháng 10-2011.
Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 12, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng.
Độc giả muốn có sách (discount 50% 10 tập đầu, 126 Mỹ kim luôn cước phí gửi), xin liên lạc: Tran Cong Nhung, P.O. Box 254, Lawndale, CA 90260. Điện thoại: (310) 978-4182 -
Email: Trancongnhung@yahoo.com - Website: www.ltcn.net
Nguồn: http://www.viendongdaily.com/lang-nghe-son-dong-5tJl5sgY.html
Trần Công Nhung/ Viễn Đông
source
VienDongDaily

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

Điểm mặt 'tứ đại gia' giàu nhất Sài Gòn


Cập nhật 07/09/2011 04:15:00 PM (GMT+7)
Go.vn

Điểm mặt 'tứ đại gia' giàu nhất Sài Gòn

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Sài Gòn nổi lên tứ đại hào phú lẫy lừng: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”.
TIN BÀI KHÁC
Sát thủ Luyện phải chịu mức án hơn 18 năm tù?
Vụ cô gái chết, Viện trưởng miễn cưỡng nhậu?
Cụ ông trúng vé số 7,6 tỷ đồng giờ ra sao?
Bebe Phạm rời sàn catwalk vì có bầu?
Một cháu bé bị đánh chết vì hái trộm ổi
Cận cảnh Cường ĐôLa trong hành trình siêu xe

Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn, mà còn giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và Đông Dương. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, vị trí thứ tư còn được dành cho một số đại phú hộ khác: Tứ Trạch, Tứ Hóa hoặc Tứ Bưởi.

Nhất Sỹ - Lê Phát Đạt (1841-1900)

Lê Phát Đạt, còn có tên gọi là Sỹ, về sau được Pháp phong Huyện hàm, nên còn được gọi là Huyện Sỹ và có tên thánh Philipphê.

Nhà thờ Huyện Sỹ tại quận 1, TP.HCM.

Huyện Sỹ sinh ra trong một gia đình theo đạo công giáo tại Cầu Kho (Sài Gòn) nhưng quê quán ở Tân An (Long An). Thuở nhỏ, ông được đi học trường Dòng tại Penang (Malaysia), nên thông thạo các ngôn ngữ: La tinh, Pháp, Hán và quốc ngữ (chữ Việt mới sơ khai). Do trùng tên với một người thầy dạy nên đổi tên thành Lê Phát Đạt.

Khi về nước, ông được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (từ năm 1880). Tuy nhiên, phần lớn thời gian ông dành cho hoạt động phát triển nông nghiệp và truyền bá đạo thiên chúa. Nhà thờ Huyện Sỹ (tại quận 1, TP.HCM ngày nay) và nhà thờ Hạnh Thông Tây (tại quận Gò Vấp) do ông bỏ tiền ra xây cất trên đất của mình.

Các con của Huyện Sỹ như: bà Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương hoàng hậu), Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân… đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười… Riêng con cả Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương, là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là “hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình.

Tương truyền, năm 1934, nhân dịp gả cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan cho vua Bảo Đại, Lê Phát An đã tặng cho Nam Phương hoàng hậu 1 triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn (tương đương 20.000 lượng vàng lúc bấy giờ).

Năm 1900, ông Lê Phát Đạt mất. Sau khi vợ ông - bà Huỳnh Thị Tài qua đời năm 1920, người ta mới đưa xác hai ông bà chôn ở gian chái sau cung thánh nhà thờ Huyện Sĩ như một nhà mồ.

Nhì Phương – Đỗ Hữu Phương (1844-1914)

Do được Pháp phong Tổng đốc hàm nên Đỗ Hữu Phương còn được gọi là Tổng đốc Phương. Ông sinh tại Chợ Đũi (Sài Gòn), gốc người Minh Hương, biết chữ Hán, nói được một số tiếng Pháp.

Đỗ Hữu Phương còn được gọi là Tổng đốc Phương, được mệnh danh là người giàu thứ nhì Sài Gòn xưa.

Năm 1872, Đỗ Hữu Phương được Thống đốc Nam Kỳ chỉ định làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn. Năm 1879, ông làm phụ tá cho Xã Tây Chợ Lớn. Ở chức việc này, ông Phương không bỏ qua cơ hội để làm giàu, làm trung gian để các thương gia hối lộ cho viên chức Pháp. Nhờ vậy, sự nghiệp của ông trở nên đồ sộ nhất nhì ở Sài Gòn thời đó.

Đỗ Hữu Phương chính là một trong những người đề xướng và đã bỏ tiền ra xây trường Collège de Jeunes Filles Indigènes vào năm 1915, tức trường Nữ Trung học Sài Gòn, mà người dân thường gọi là trường Áo Tím (nay là Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai)…

Trước 1975, ở Chợ Lớn có con đường Tổng Đốc Phương, mà bây giờ là Châu Văn Liêm thuộc quận 5.

Tam Xường - Lý Tường Quan (1842-1896)

Bá hộ Xường, tên thật là Lý Tường Quan, tự Phước Trai, sinh năm 1842, mất năm 1896.

Khu nhà thờ Bá hộ Xường.

Cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường, sách vở biên chép rất ít, chỉ biết đại khái ông là người Minh Hương, lánh nạn phong kiến nhà Thanh, sang đất Nam Kỳ, vào học trường Tây, rồi làm thông ngôn cho chính quyền Pháp - rất được yêu mến và trọng dụng bởi sự thông minh, đắc dụng. Năm 30 tuổi, ông bỏ nghề thông ngôn bước vào lĩnh vực kinh doanh lương thực dịch vụ, thầu cung cấp vật dụng thức ăn, độc quyền cung cấp thịt cá cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận.

Sách Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển chép: Hộ Xường vốn là thông ngôn xuất thân. Sớm xin thôi, ra lãnh thầu cung cấp vật dụng thức ăn cho thị xã, rồi mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán. Nhờ khéo tay thêm gặp thời, ông trở thành cự phú không mấy hồi… Thế nhưng, sau khi ông chết, số tài sản kếch sù đều bị con cháu nhanh chóng bán tiêu xài hết. Cái mà nay còn lại là khu nhà mồ cổ khá kiên cố do “tôn tử tương tề đồng tâm” xây dựng vào tháng 12/1896, hiện ở gần di tích Địa đạo Phú Thọ Hòa, thuộc phường 18, quận Tân Bình, TP.HCM.

Tứ Định – Trần Hữu Định

Người xếp hạng tư là bá hộ Định, tên thật Trần Hữu Định. Xuất thân là chủ tiệm cầm đồ, rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng (bấy giờ, Chợ Lớn là một tỉnh riêng biệt gồm 20 hộ, độc lập cùng với tỉnh Gia Định) kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi, ông phất lên nhanh chóng nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm.

Có biệt thự ở nhiều nơi và cũng như bá hộ Xường, danh xưng bá hộ Định hay Hộ Định là do dân Chợ Lớn thấy ông giàu có nên gọi như vậy. Sau khi ông mất, con cháu không biết giữ của, tiêu xài và xoá sạch vết tích của nhà cự phú này.

Năm 1960, trong tác phẩm Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển mô tả cơ ngơi của Trần Hữu Định như sau: “Nhà ở khoảng giữa đường Trần Thanh Cần, gần dốc cầu Palikao một đầu và chợ Quách Đàm một đầu. Ngôi nhà năm căn trệt chạm trổ thật khéo, cột cẩm lai bóng ngời ngó thấy mặt; trong nhà từ cái bàn, cái ghế, cái đôn sành đều có vẻ cũ xưa. Mấy năm trước chính mắt tôi còn thấy làu làu vững chắc tuy khuỷnh vườn sân trước đã bị cắt xén sát mặt tiền nhường chỗ làm thềm và đường cái mở rộng nên lấp kênh.

Gần đây, vì đất chợ cao giá nên tuy nhà lập làm phần hương hỏa mà con cháu đã bán và dỡ đi. Thay vào đó là một dãy phố lầu tiệm buôn khách trú. Phần hoa lợi tuy có thêm, nhưng thiệt hại về cổ tích từ đây và cứ theo đà này, đô thành Sài Gòn ngày một mất dần những dấu vết xưa...”.

(Theo Đất Việt)

source

http://www.vietnamnet.vn/vn/kinh-te/38503/diem-mat--tu-dai-gia--giau-nhat-sai-gon.html

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Góa phụ tử sỹ Hoàng Sa kể chuyện


Góa phụ tử sỹ Hoàng Sa kể chuyện

Cập nhật: 15:35 GMT - thứ năm, 28 tháng 7, 2011

Thiếu tá Ngụy Văn Thà

Chồng bà Sinh nằm trong số 58 người lính Việt Nam Cộng hòa hy sinh trong trận hải chiến

Lễ tưởng niệm các liệt sỹ Việt Nam của cả hai chế độ trong các cuộc chiến chống Trung Quốc kể từ năm 1974 tới nay đã diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày Thương binh liệt sỹ 27/7.

Trong số những người tới dự có bà Huỳnh Thị Sinh, quả phụ của Thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo của hải quân Việt Nam Cộng hòa, người nằm trong số 58 binh lính hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa với hải quân Trung Quốc hồi năm 1974.

Nguyễn Hùng của BBC đã hỏi chuyện bà Sinh ngay sau khi bà tham dự buổi lễ tưởng niệm đầu tiên cho chồng bà từ năm 1975.

Khi Thiếu tá Ngụy Văn Thà rời nhà đi công tác trong những ngày giáp Tết Giáp Dần hồi năm 1974, ông ôm hôn và tạm biệt vợ con như các chuyến đi trước đó.

Nhưng bà Huỳnh Thị Sinh, vợ ông, nói ông có vẻ bịn rịn hơn bình thường.

Ông, bà Sinh và ba cô con gái, khi đó lên ba, sáu và chín tuổi sống trong một căn hộ chung cư trên tầng hai ở đường Lý Thường Kiệt.

Căn hộ có một chiều 12 mét và một chiều 3,5 mét. Bà Sinh nói vì "không có tiền nên mới phải ở vậy".

Bà nhớ lại buổi chia tay chồng: "Trước khi ông đi, ông cứ đi ra lại đi vô.

"Rồi ông đứng dưới đường nói 'tàu đang vô dầu, sửa chưa xong".

Phỏng vấn bà Huỳnh Thị Sinh

Vợ góa của liệt sỹ Hoàng Sa Ngụy Văn Thà kể với BBC về ngày bà biết tin chồng hy sinh trong trận hải chiến chống Trung Quốc.

Bạn cần mở JavaScript lên và cài phần mềm Flash Player mới nhất để nghe/xem.


Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Thiếu tá Thà, 31 tuổi và bà Sinh, 26.

Trong trận hải chiến một, hai ngày sau đó, chiến hạm Nhật Tảo - HQ10 của ông được cho là đã đã bắn hỏng một trong số các tàu của hải quân Trung Quốc nhưng HQ10, vốn chưa sửa xong hỏng hóc và chỉ còn một máy hoạt động, phải hứng những làn mưa đạn.

Theo lời kể của những người sống sót, máu các chiến sỹ loang đỏ trên boong, và Hạm trưởng Thà đã tử trận khi đạn bắn trúng đài chỉ huy.

Sau khi trận hải chiến ban đầu bất phân thắng bại, hai tàu chiến tăng viện của Trung Quốc đã tới Hoàng Sa và bắn chìm chiến hạm Nhật Tảo, hậu thân của tàu vớt mìn Hoa Kỳ USS Serene.

Xác của hạm trưởng Thà cùng hàng chục binh sĩ đã ra đi cùng chiến hạm vào lòng biển.

Đau buồn

Nói chuyện với BBC hôm 27/7, bà Sinh nói:

"Cái chuyến công tác sau cùng mà ông Thà đi, ổng đâu có nói đi để đánh nhau với Trung Quốc hay là cái gì đâu. Cũng bình thường như mình nghĩ ông ấy đi công tác hàng tháng vậy thôi.

"Có khi ông ấy đi một tháng ông ấy về mười ngày rồi ông ấy lại đi nữa. Mà có khi ông ấy đi hai, ba tháng ông ấy mới về một lần. Mình cũng nghĩ ông ấy đi công tác vậy thôi.

"Trời ơi, lúc đó tôi cũng đau buồn lắm. Chứ cũng đâu biết sao bây giờ. Tôi hết hồn luôn đó."

Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ góa của Thiếu tá Ngụy Văn Thà

"Ông ấy nói chuyến công tác này ông ấy đi Đà Nẵng đó.

"Mà tôi không biết làm sao, qua ngày sau thấy báo tin là ổng chết, đánh nhau với Trung Quốc.

"Trời ơi, lúc đó tôi cũng đau buồn lắm. Chứ cũng đâu biết sao bây giờ. Tôi hết hồn luôn đó."

"...Lúc đó mấy cháu nó còn nhỏ quá. Cháu nhỏ nhất là ba tuổi, còn cháu lớn hình như nó biết.

"Nó ra ngoài cầu thang nó ngồi... nó buồn lắm.

"Lúc đấy nó cũng học lớp hai, lớp ba rồi... nó đọc báo nó thấy, nó hỏi tôi.

"Thì tôi cũng kể cho nó là ba nó chết vậy đó thôi."

Mất xác

Bà Sinh nói bà nhớ chính quyền thông báo cho bà vào ngày 27 Tết Quý Sửu.

chiến hạm Nhật Tảo

Thiếu tá Ngụy Văn Thà và hàng chục đồng đội đã chết mất xác cùng chiến hạm Nhật Tảo

"Lúc chồng tôi mất thì Bộ Tư lệnh Hải quân cũng có tới nhà tôi làm lễ truy điệu.

"Tại vì ảnh chết không có xác, chỉ có làm lễ thôi.

"Lúc đó nghe ông Tư lệnh ông ấy nói chết... mất xác luôn rồi.

"Tại vì chồng tôi chết trên chiếc tàu, mà tàu nó chìm xuống là mất xác luôn rồi.

"Hổng có đem xác về được mà cũng hổng có nơi chôn cất gì hết, chỉ có làm lễ truy điệu và mình để cái ảnh của anh lên để thờ vậy thôi.

"Hàng năm đúng ngày đó làm đám giỗ vậy à."

Tưởng niệm

Bà quả phụ nói kể từ tháng Một năm 1974 cho tới khi Sài Gòn sụp đổ hồi tháng Tư 1975, bà được nhận tiền "cô nhi quả phụ" của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để bà và ba con có thể sinh sống.

Sau khi Việt Nam thống nhất, các khoản trợ cấp không còn nữa.

Bà đi làm hợp tác xã và ở vậy nuôi ba cô con gái.

Hiện bà Sinh đang ở nhờ nhà người em gái do người ta đã phá chung cư cũ của bà đi để xây mới nhưng việc xây dựng còn chưa bắt đầu.

"Làm được như vậy cho mình thì mình cũng mừng lắm. Mấy anh cũng nghĩ tới vậy thì mình cũng cảm ơn."

Bà Huỳnh Thị Sinh nói về lễ tưởng niệm cho chồng bà và các liệt sỹ

Bà nói với BBC bà rất vui khi đi dự buổi lễ tưởng niệm những liệt sĩ hy sinh khi chiến đấu chống Trung Quốc.

"Cái đó thì tôi hổng dám nghĩ tới.

"Mấy anh ở bên đây muốn làm sao thì cũng được.

"Làm được như vậy cho mình thì mình cũng mừng lắm.

"Mấy anh cũng nghĩ tới vậy thì mình cũng cảm ơn".

Chồng bà Sinh nằm trong số 58 người lính Việt Nam Cộng hòa hy sinh trong trận hải chiến mà Trung Quốc đã chiến thắng và chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa hồi năm 1974.

Kể từ đó tới nay, ngoài cuộc chiến biên giới đẫm máu năm 1979, hải quân Trung Quốc cũng bắn chết 64 lính Việt Nam ở Trường Sa hồi năm 1988 và chiếm bãi đá Gạc Ma từ tay Việt Nam.

Hồi cuối tháng Năm và trong tháng Sáu, (...) đã ngầm cho phép một số cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc diễn ra sau khi Bắc Kinh cho tàu gây hấn với tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam ở khu vực đảo Trường Sa.

Tuy nhiên, một số cuộc biểu tình trong tháng Bẩy đã bị trấn áp dưới sức ép của Trung Quốc và ý muốn kiểm soát tối đa của (...).

source

BBC Vietnamese

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

Bối cảnh biển Đông từ thời điểm này


Cập nhật: 13:37 GMT - thứ bảy, 18 tháng 6, 2011

Bối cảnh biển Đông từ thời điểm này

Tàu Haixun 31 của TQ

Tàu tuần duyên của Trung Quốc chuẩn bị đi qua khu vực tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa vào ngày 23 tháng Sáu.

Theo dõi tình hình biển Đông, nhiều người dễ bị cuốn theo các sự kiện như Đài Loan, Philippines, Mỹ, Trung Quốc đưa hạm đội tới vùng tranh chấp hoặc tổ chức tập trận phòng vệ, cũng như sẽ tiếp tục có những diễn đàn ngoại giao bàn về những nguyên tắc ứng xử, những định hướng giữ hoà bình ổn định vùng biển trọng yếu này.

Nhưng toàn bộ những nội dung trên sẽ thành những yếu tố phụ nếu nhà cầm quyền Trung Quốc đặt để thành công giàn khoan dầu khổng lồ xuống biển Đông.

Với Việt Nam, ý đồ của Trung Quốc dùng thế và lực của một nước lớn áp đặt giàn khoan này cũng tương tự như hành động dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974.

Không thể lấy chuyện cầu xin Thượng Đế hoặc trông chờ vào Công pháp về biển, tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung để lấy lại Hoàng Sa hay ngăn cản Trung Quốc tiến một bước dài nữa xuống phía nam.

Thông qua việc đặt giàn khoan khổng lồ vào biển Đông, Trung Quốc đang đi lại nước cờ cũ như ở Hoàng Sa, với tham vọng thu tóm toàn bộ biền Đông và khoá cửa ra biển của Việt Nam cùng các nước trong vùng Đông Nam Á.

Những nhà quan sát cho rằng, Trung Quốc sẽ không rút nước cờ chiến lược này cũng như không lùi lịch đưa giàn khoan xuống biển Đông vào tháng 7/2011.

Việc Trung Quốc không cần che dấu mưu đồ, không ngừng leo thang hành động bá quyền đang khiến trật tự thế giới biến động khó lường

Trần Tiến Dũng

Nhà cầm quyền Trung Quốc đã chọn đánh mất thể diện văn minh và uy tín của một nước lớn để đạt mục tiêu bá quyền trên biển và an ninh năng lượng.

Thời gian qua, ở Việt Nam với hai cuộc biểu tình phản đối của công chúng, các phát ngôn từ chính phủ hiện hành, các nguồn dư luận từ lề trái, lề phải, trong nước, hải ngoại đều có tính thống nhất quan điểm và nhận thức về thực trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia từ Trung Quốc.

Ý thức bảo vệ chủ quyền biển Đông, một lần nữa, đã trở thành động lực để mọi người Việt Nam mài sắc ý thức yêu nước. Một cán bộ phong trào sinh viên học sinh trước năm 1975 nói:

“ Theo tôi, đất nước không còn hoàn toàn hoà bình nữa.” Khi được hỏi rằng ông xác định đất nước đang trong tình trạng nào.

Ông “sửa” câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh đất nước năm 1946 để cho thấy tình trạng đất nước thời điểm này.

“Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, giặc Trung Quốc càng lấn tới…”

Tính hiếu hoà của người Việt và mưu cầu yên ổn để phát triển đang bị thách thức. Trung Quốc đang giành cho mình cái quyền áp chế các nước nhỏ trong vùng Đông Nam Á như một chiến lược để trở thành một cường quốc.

Việc Trung Quốc không cần che dấu mưu đồ, không ngừng leo thang hành động bá quyền đang khiến trật tự thế giới biến động khó lường.

'Bá quyền Trung Quốc'

Giàn khoan Trung Quốc

Một giàn khoan dầu khí của Trung Quốc củng cố và vận hành ở Biển Đông vào năm 2004.

Khi nội dung về chủ quyền và quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đông được minh bạch như thời gian vừa qua và tiếp tục minh bạch hơn nữa thì hiệu quả không chỉ là sáng rỏ chính nghĩa trước dư luận thế giới mà cốt lỏi là sẽ đạt được một hội nghị Diên Hồng ở tầm vóc toàn dân tộc.

Không thể có sự ủng hộ của dư luận thế giới nếu chính bản thân quốc gia có chính nghĩa bảo vệ chủ quyền không phản ứng thích đáng.

Một giáo viên về hưu nói: “Đừng nói nhà cầm quyền Trung Quốc không sợ mất nhân tâm Việt Nam. Nếu họ mù quáng ỷ vào thế và lực từ kinh tế đến quân sự của một nước lớn thì điều đó là hố sâu thất bại có sẵn ngay dưới chân họ.”

Nhưng liệu nhà cầm quyền Việt Nam mở rộng kho vũ khí yêu nước tối thượng hay chỉ vừa hướng dư luận đến cánh cửa nửa mở, nửa khép.

Nếu vẫn còn thái độ thiếu dứt khoát sẽ chỉ khiến dư luận hoài nghi. Bạch hoá dư luận để xác định chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc là tư tưởng mà các triều đại trong lịch sử Việt Nam luôn xác định dứt khoát.

Tiến trình dư luận trong và ngoài nước hiện nay đã đưa đến thống nhất ý chí, mở ra chiến lược cứng rắn để bảo vệ hoà bình và phát triển.

Ai cũng biết việc đòi lại chủ quyền sau khi để mất về tay Trung Quốc như trường hợp Tây Tạng đau đớn và tuyệt vọng như thế nào

Trần Tiến Dũng

Dư luận cho rằng giới (...) hiện nay vẫn còn đó khả năng sai lầm nghiêm trọng nếu vẫn chỉ ỷ lại vào vũ khí, tiềm lực kinh tế, khả năng ngoại giao và kinh nghiệm chiến tranh.

Dù là xung đột cục bộ hay chiến tranh toàn diện, chiến thắng luôn thuộc về quốc gia hoàn thiện vũ khí yêu nước và chính nghĩa chống xâm lăng.

Một cô thợ hớt tóc nói với một người khách.“Nghe nói dạo này có chuyện Trung Quốc ăn hiếp nước mình. Trung Quốc mà làm tới dân mình sẽ chiến đấu đến cùng.”

Ngay cả một cô thợ hớt tóc cũng quan tâm đến vận mệnh quốc gia trước hiểm hoạ từ Trung Quốc, thái độ đó của cô và hàng triệu triệu công dân Việt Nam như cô đã minh định quyền và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Ai cũng biết việc đòi lại chủ quyền sau khi để mất về tay Trung Quốc như trường hợp Tây Tạng đau đớn và tuyệt vọng như thế nào.

Tư tưởng cầu yên bằng mọi cách, từ thời điểm này sẽ trở thành một trọng tội, bởi vì nó có nghĩa làm vô hiệu thứ vũ khí yêu nước tối thượng, mà nhờ đó, trải qua hàng ngàn năm dân tộc này tự tin đấu tranh giữ trọn vẹn quyền tồn tại.

Bài viết phản ánh cách hành văn và quan điểm riêng của tác giả, ký giả tự do Trần Tiến Dũng, hiện sinh sống ở Sài Gòn.

source

BBC Vietnamese

Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

Đền thờ Bà Triệu



Cập nhật lúc 7:11:58 PM - 04/02/2011
Bài và ảnh: Trần Công Nhung

302-H1.jpg

Tam quan đền Bà Triệu.

Rời Lam Kinh tôi chạy xe thẳng về Thanh Hóa theo QL 217; lúc còn cách Thanh Hóa chừng mươi cây số, thấy bên trái QL1A một ngôi đền lớn, cổng tam quan đồ sộ, tường vách màu khói nhang, tôi chậm xe rẽ vào, không ngờ đây là đền thờ Bà Triệu.
Trời đã chiều, tôi mau chân lên Đền quan sát và chụp ít ảnh. Đền Hai bà Trưng, đền Thánh Trần thì nhiều,mà đền bà Triệu tôi mới gặp lần đầu. Đền nằm bên sườn một ngọn núi, phải hai chục tam cấp mới lên tới sân đền.
Lịch sử Bà Triệu, con dân Việt Nam ai cũng biết từ khi cắp sách đến trường. Bà tên thật là Triệu Thị Trinh, nhưng nhân dân quen gọi là Bà Triệu. Bà đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Ngô thế kỷ thứ 3. Bà Triệu người vùng núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Bà nổi tiếng là một thiếu nữ có nhan sắc, có sức khỏe và giàu mưu trí. Không cam tâm chịu sống đời nô lệ, năm 19 tuổi, bà đã qui tụ nghĩa sĩ trong vùng luyện tập võ nghệ, chuẩn bị đánh giặc cứu nước. Khi nghe người thân khuyên bà nên lấy chồng để có cuộc sống bình thường như mọi người, bà đã khẳng khái đáp: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người”.

302-H2.jpg

Hồ sen với 4 trụ biểu.

Năm 247, bà cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực trong vùng, dựng cờ khởi nghĩa. Dân chúng khắp nơi nô nức hưởng ứng. Bà mặc áo giáp, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi ra trận đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô hoảng sợ sai tướng Lục Dận mang binh mã sang phục thù. Sau nhiều trận ác chiến, nghĩa quân phải lui về miền núi Thanh Hóa để bảo toàn lực lượng. Trong trận đánh bên ngọn núi Tùng, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh. Lăng mộ bà được đặt bên chân núi, thôn Phú Điền xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Có truyền thuyết: Sau khi bà qua đời, con voi một ngà thường đưa bà ra trận, nhớ thương chủ cũ cứ nằm phục bên mộ và hóa thành ngọn núi Gai, còn có tên là Tượng Sơn, nơi có đền thờ Bà Triệu hiện nay.
Ban đầu, ngôi đền chỉ là một nếp nhà tranh đơn sơ. Đến thế kỷ VI, vua Lý Nam Đế đi đánh giặc qua đây thì trời tối, ông cho quân lính nghỉ tạm bên Đền. Nửa đêm ông thấy có ánh hào quang vụt qua. Lấy làm lạ, Lý Nam Đế cho gọi dân làng đến hỏi. Khi biết đây là đền thờ Bà Triệu, nhà vua liền làm lễ cầu thắng trận. Sau khi dẹp xong giặc, ông cho xây dựng lại ngôi đền với quy mô lớn hơn. Đến đời nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII), đền Bà Triệu được trùng tu như hiện nay.

302-H3.jpg

Tổng quát đền Bà Triệu.

So với đền Mê Linh thờ hai Bà Trưng (1), đền Bà Triệu có hẹp về khuôn viên, nhưng vóc dáng bề thế uy nghiêm hơn. Từ ngoài Quốc lộ nhìn vào, cổng tam quan hai tầng mái, sừng sững trên cao. Lối kiến trúc đơn giản, mạnh mẽ mà vẫn giữ được nét cổ kính của đền miếu. Thoạt nhìn du khách đã có ngay ý nghĩ trân trọng tôn nghiêm. Chung quanh Đền không có cảnh buôn bán lôi thôi như nhiều nơi khác. Trước mặt Đền là hồ sen, bốn bề kè đá, có 4 trụ biểu đá xanh khắc hoa văn đẹp, một bình phong cũng đá xanh, chắn giữa trụ biểu và hồ sen xanh lá không thấy hoa. Đã mùa hè mà sen chưa nở. Cây đa to nhưng không cao, nhánh nhiều và xòa ra phủ bóng râm từ trong sân ra giữa hồ... Qua một sân lát đá xanh, lên gần hai chục tam cấp mới đến cửa Tam Quan. Sân Đền lát gạch Bát Tràng, chính giữa có một lối đi lát đá xanh rộng chừng 2m, thẳng vào tiền đường có hai voi đá chầu hai bên. Tiền đường gồm 5 gian, cột đá (2) mài vuông cạnh, khắc câu đối bằng chữ Hán. Sau tiền đường là khoảng sân nhỏ còn gọi là thiên tỉnh (giếng trời để đón ánh sáng), hai bên là tả hữu vu, nhà tiếp khách và sửa soạn lễ. Tiếp đến là chánh điện, lên chánh điện bằng hệ thống tam cấp, có bốn hàng rồng đá ngăn thành ba lối, tương tự như rồng đá điện Lam Kinh, nhưng đơn giản hơn. Kiến trúc chánh điện khá cầu kỳ, mái hai tầng rất bề thế. Nóc mái không đắp lưỡng long tranh châu, nhưng đuôi mái trang trí kiểu long đao cong vút, giống mái chùa Tây Phương Hà Tây (3). Tất cả các cột đều bằng gỗ quí, có chạm trổ. Việc thờ phượng cũng lọng che phướn rủ, cờ đuôi nheo… màu đỏ thắm. Bàn thờ chỉ có bài vị và bộ tam sự đơn giản. Đặc biệt có một trống đồng trước bàn thờ. Sau cùng là hậu cung ba gian, cũng hai tầng mái dạng như chánh điện tuy nhỏ hơn. Hậu cung dựa vào vách núi. Theo thế đất các tòa kiến trúc cao cao dần, cách nhau cả chục bậc tam cấp. Đối diện với Đền, phía bên kia quốc lộ 1A là núi Tùng - nơi có lăng Bà Triệu.
Không một khách viếng Đền, cũng không thấy ai trông coi, tôi cặm cụi lo chụp ảnh mãi mới thấy có một bà già đi vào. Tôi hỏi thăm:
- Bác là người trông Đền?
- Không tui bán nước phía trước.
- Đền ít ai tới thăm bác hả?
- Có chi mô mà thăm, tới ngày lễ hội mới đông người.

302-H4.jpg

Bàn thờ trong hậu cung.

Ngày hội Bà Triệu là ngày 22 tháng 2 âm lịch. Thăm đền thờ Bà Triệu (4) để thấy con cháu không bao giờ quên công trạng vì dân vì nước của cha ông, dù thời gian có qua bao lâu chăng nữa. Lịch sử nước nhà cũng có những nhân vật đã không cứu nước mà còn hại dân, như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc… thì đời đời còn bị nguyền rủa. Đó cũng là lẽ công bằng như “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” vậy.
Trời đã hết nắng, tôi vội chạy về Thanh Hóa. Vào đầu thành phố thấy có khách sạn Thanh Thủy bên đường, tôi vào lấy phòng ngay. Trông qua, biết đây chỉ là nhà trọ, tiếp tân giao cho một bé gái 10 tuổi thì không thể là khách sạn được. Trời tối, lạ đường, biết đâu tìm, tôi nhận đại một phòng. Điều không may, khách sạn nằm giữa hai trục lộ giao thông: Đường sắt và QL1A, chốc chốc, tàu qua xe lại, suốt đêm không sao chợp mắt.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, trả phòng đi vào Nghệ An. Nơi đây có nhiều di tích cần tìm: Căn nhà tranh cụ Phan Bội Châu, lăng mộ Mai Hắc Đế, Đền Hồng Sơn, đình Hoành Sơn, đền thờ Nguyễn Biểu, lăng mộ Phan Đình Phùng…

Trần Công Nhung
06 - 2008


(1). Đền Mê Linh đã đăng.
(2). Thanh Hóa là nơi có nhiều núi đá xanh, nên nhiều công trình được làm bằng đá (thành nhà Hồ, điện Lam Kinh, Nhà thồ đá ở Ninh Bình cũng lấy đá từ Thanh Hóa).
Đền bà Triệu được xây dựng trên ngọn núi Gai, cạnh quốc lộ 1, thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc,
(3). Chùa Tây Phương trang 167 QHQOK 5.
(4). Trong Quốc Sử Diễn Ca, nhà thơ Lê Ngô Cát (thời Nguyễn) có viết:
Vú dài ba thước dắt lưng,
Cưỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra.
Cũng toan gánh vác sơn hà,
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.
Vua Tự Đức đọc khen hay, nhưng sửa hai chữ “cũng toan” thành “ghé vai”, và nói đùa, “Thế đàn ông nước Nam đâu cả”. (Chín chúa mười ba vua của TT Bình trang 101).
source
Vien Dong Daily

Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2011

Đình Hoành Sơn


Đình Hoành Sơn
Cập nhật lúc 6:56:57 PM - 29/04/2011
Bài và ảnh Trần Công Nhung/Viễn Đông

314h1.jpg

Đình Hoành Sơn

Theo lời hướng dẫn của bác nhân viên trực đền Hồng Sơn (1) tôi theo đường 558 đến cuối đường rẽ trái qua câu sắt Yên Xuân đi về xã Khánh Sơn huyện Nam Đàn, nơi tọa lạc đình Hoành Sơn. Đoạn đường không xa, chừng 20km song phải qua nhiều khúc quanh co, lúc chạy qua làng, khi chạy trên đê, phải thăm chừng luôn mới không lạc hướng.
Tôi thầm nghĩ, đình thì nơi nào cũng na ná nhau thôi. Cái thú ở đây là được đến vùng xa lạ, cảnh vật có nhiều sắc thái khác thường, lòng luôn háo hức tìm kiếm khám phá cái mới. Sự đổi thay của cảnh quan lôi cuốn và đánh thức mọi giác quan của người đi đường. Nhờ thế khách lữ hành không hề thấy mệt mõi trái lại lúc nào và nơi đâu cũng đáng biết đáng ghi.
Lúc qua cầu Yên Xuân, nhìn xuống dòng sông Lam, phải nói đẹp lạ lùng dù nước sông màu vàng đục. Ngay hạ lưu mà dòng sông uốn khúc mấy lần, hình ảnh uyển chuyển êm đềm. Những con đò hiền hòa kề bên nhau từng cụm như cùng chuyện trò. Mui đò miền này hơi khác trong Nam, mui bằng tre đan không lợp lá, phía mũi cao hơn và hai ba lớp cơi lên nhau trông như cái mai con trút. Tôi dừng lại một lúc để thưởng thức vẻ đẹp của dòng sông Lam, dòng sông của thi ca không của làng chài. Rất tiếc tôi không là thi sĩ để có đôi câu ngợi ca dòng sông và con đò xứ Nghệ. Con đò nơi đây khác với con đò của cụ Cao Bá Quát khi có ý dèm pha làng thơ xứ Huế: “Ngán cho cái mũi vô duyên. Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An”. Những con đò trên sông Lam không có “mùi” mà đầy thi vị.

314h2.jpg

Sông Lam

Sông Lam núi Hồng (Lĩnh) là biểu tượng đã đi vào hồn người xứ Nghệ:
“Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh, nhớ núi Hồng Lĩnh,
nhớ dòng sông La (một nhánh của sông Lam), nhớ biển rộng quê ta...”.
Qua Cầu Yên Xuân tôi men theo đê sông Lam, nhìn xuống dọc dòng sông, nhiều thuyền bôm cát cho ngành xây cất. Qua một đoạn, bãõi bồi từng nhóm người đang nhổ đậu phụng (lạc). Tuy công việc đồng áng mà rất nhàn nhã, chỗ vài ba người, không vội vã như ngày mùa lúa chín. Thuở trước thấy trong sách truyện hay mô tả tiếng hò cô lái đò trên sông, tiếng hát trên đồng của chị đi cấy, ngày nay tuyệt nhiên không thấy gì, kể cả tiếng chim trời, con người lầm lũi với công việc. Cảnh có đẹp và yên bình mà vắng lặng. Có thể do cuộc sống chắt buộc quá nên không mấy ai còn nghĩ đến chuyện hát hò? Ngày nay nông dân từ từ được thị hóa, một số ra đồng bằng xe máy xe đạp, quần jean, màu sắc như đi hội, xuống ruộng mang ủng, không chân trần như ngày xưa. Trên đê một con bò vàng nằm nhai lại cạnh chiếc xe máy đỏ chói, một hình ảnh mới của đồng quê hôm nay.

314h3.jpg

Mùa đậu phụng (lạc)

Lúc đến gần một xóm làng thì sên xe nổi lên “reẹc reẹc” tôi có cảm giác sên muốn đứt. Tôi giảm tay ga, thả xe lăn từ từ xuống đường rồi dắt bộ vào làng. Tôi bắt đầu lo, chỗ quê mùa vầy liệu có ai sửa xe chăng. Mấy phút sau có người đạp xe qua tôi hỏi: “Trong làng có ai sửa xe không chị”? – “Chú vô một khúc nữa có nhà sửa xe”. Tôi thở phào, và nỗi mệt mỏi lo âu tan biến ngay. Tiệm sửa xe là một mái nhà gạch nhỏ, trước sân có dựng tấm bảng “Sửa xe máy”. Dắt xe vào sân tôi gọi to: “Sửa dùm xe đi”, “Sửa dùm xe...”, la to thế mà chẳng ai lên tiếng. Chắc thợ sửa xe đi cuốc đất cũng nên. Gọi thêm mấy lần nữa, không thấy gì, tôi bắt đầu nản và chẳng biết xoay xở sao thì đúng lúc có một anh chàng đi ra, tôi phản ứng ngay: “Sửa xe gì mà kêu muốn chết” – “Dạ nay là ơ rô 82 mà chú”. Tôi bật cười, à thì ra ông này mãi dán mắt vào TV, giải World Cup Euro 82. Thảo nào. Tôi cười giả lả:
- Coi dùm sên xe chú nó kêu quá.
- Dạ được, chú chạy xe trong Nha Trang ra hả?
- Sao cháu biết?
- Số 79 của Nha Trang, cháu trước kia có làm việc trong đó.
- Thế hả, ừ giúp chú tí.

314h4.jpg

Chạm trổ đầu cột

Tự nhiên tôi thấy yên tâm hơn như thể gặp người quen. Anh thợ mang đồ nghề ra và bắt đầu việc kiểm tra “sự cố”.
- Xích chú gần đứt, may chớ đứt là bể máy luôn.
- Vậy hả, giờ sửa được không?
- Dạ, cháu cắt một mắt rồi nối lại, không sao.
Anh thợ loay hoay tháo bánh tháo sên, lâu lâu sai cháu bé 3 tuổi chạy lấy thứ này thứ nọ. Tôi ngạc nhiên thấy con bé hiểu hết công việc của bố. Xích xong đến bạc đạn, tôi bảo thay luôn. Tất cả chỉ 80 nghìn đồng. Tôi đưa anh luôn 100 nghìn (5 đô). Giữa chôn quê mùa hoang vắng mà có người giúp cho như vậy là quá hên. Tôi hỏi đường vô đình Hoành Sơn, anh thợ cho biết còn mấy cây nữa.
Tuy xe đã sửa, tôi cũng không dám chạy nhanh, không lên đê mà chạy dưới đường làng, đường nhựa mát bóng tre xanh. Chỉ mấy phút đã thấy bảng “Đình Hoành Sơn.Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Quốc Gia” cắm trên bờ đê, đối diện cổng đình. Tôi hơi ngạc nhiên, cổng đình mà như cổng nhà ở, tường thì thấp chừng 1 mét, ai leo vào cũng được. Cổng khóa bằng xích sắt. Dưới tàn mấy cây bàng trước sân, mái đình oằn oằn, tường vôi trắng, trông thiểu não, không có vẻ gì là di tích. Lui tới không thấy ai. Lát sau có người đi qua cho hay “Chú vô theo hẻm bên hông đình, ra sau có nhà bác bảo vệ”. Tôi dắt xe luồn ra sau vườn chuối, thấy có bà già đang sàng sảy dưới hiên mái nhà tranh. Tồi lần đến và hỏi nhỏ: “Thưa bác tôi muốn hỏi thăm bác bảo vệ đình”. Bà già ngưng tay nhìn tôi mọât lúc, tôi nói rõ thêm: “Tôi ở xa nghe tiếng đình Hoành Sơn nên đến thăm”. Bấy giờ bà già mới lên tiếng:
- Ông nớ đi khỏi rồi.
- Dạ chừng nào bác ấy về?
- Không biết mô.

314h5.jpg

Sửa xe

Tôi năn nỉ bà già: “Tôi ở tuốt Nha Trang ra đây thăm Đình, bác có cách gì mở dùm cửa cho tôi vào xem ít phút thôi. Vì tôi còn phải chạy vào Đồng Hới hôm nay”. Bà già nghĩ ngợi một lúc rồi vô nhà xách xâu chìa khóa ra giao cho tôi: “Cái ni là khóa cổng, cái ni khóa cửa đình…”. Tôi rất mừng mang chìa khóa đi ngay.
Mặt tiền đình Hoành Sơn hơi tối, chỉ có cửa gỗ bàn khoa gian giữa, trên cửa treo bảng nội qui:
Nội quy
Bảo vệ di tích đình Hoành Sơn
1 Mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ di tích văn hóa đình Hoành sơn đã được nhà nước xếp hạng số 92 ngày 10 – 7 – 80
2 Cấm: Chăn thả gia súc hoặc đưa rơm rạ, vật chất khác vào để trong khu vực đình.
Cấm: khai thác đất đá chặt phá cây cảnh trong diện tích được nhà nước và địa phương qui hoạch quản lý di tích.
3 Khách đến lễ tự, tham quan phải báo cho bảo vệ di tích biết và chấp hành các hướng dẫn của nhân viên bảo vệ không tự tiện chuyển dời di vật của đình.
4 Ai vi phạm nội quy trên phải chịu trách nhiệm theo pháp lệnh.
UBND xã Khánh Sơn
Pháp lệnh số 14 ngày 4.4.1984

314h6.jpg

Bàn thờ trong đình


Hai bên cửa chính, xây tường và trổ thêm 2 cửa “pa nô”â nhỏ. Trông bên ngoài, đình không có gì đặc biệt. Mở cửa vào trong tôi càng ngạc nhiên hơn, mấy gian trống trơn, không trống không cờ, bàn thờ là bệ xây trơ trọi có mấy pho tượng Phật lớn nhỏ bày biện lộn xộn, một bát nhang sơ sài. Tất cả bụi phủ một lớp dày. Tôi có cảm tưởng như đình bỏ hoang. Nhưng, xem kỹ thì thấy đình có mấy điểm đặc biệt:
- Cột đình bằng gỗ lim, có 32 cột, đường kính trên 40 phân, 12 cột cái cao trên 5 mét. 20 cột con cao gần 4 mét.
- Các đầu kèo và cột đều có chạm trổ công phu tỉ mỉ, lối chạm của đình Hoành Sơn khá đặc biệt: Không chạm thẳng tròn cột mà chạm riêng và gắn vào, do đó trông rất mạnh mẽ và uy nghiêm.
Vì không gặp người bảo vệ nên không biết Thành Hoàng của đình là vị nào, và nguồn gốc ban sơ của đình do ai xây dựng. Về sau tìm hiểu qua sử liệu được biết đình Hoành Sơn là một kỳ công trong kiến trúc và cũng có giai thoại rất lạ trong thời kỳ tạo lập.

(Còn tiếp)

Trần Công Nhung
Tháng 6 - 2008


(1) Đền Hồng Sơn đã đăng
source
Vien Dong Daily

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa Phần 1


by Nguyễn Đức Hiệp — Cập nhật : 19/02/2011 22:24

Phần 1



Chợ Lớn
Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa

Phần 1


Nguyễn Đức Hiệp


Chợ Lớn, cách Sài Gòn khoảng 6km, trước đây từng được coi là thủ đô lúa gạo của toàn Đông Dương. Vai trò của Chợ Lớn là cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế Nam Kỳ xưa kia và ngay cả ngày nay. Lịch sử Sài Gòn gắn liền với lịch sử Chợ Lớn. Chợ Lớn được thành lập trước Sài Gòn. Sài Gòn thật ra là tên trước đây đặt cho khu Chợ Lớn và chính tên Sài Gòn có thể có nguồn gốc từ “Tai Ngon” hoặc ‘Tin-Gan” (Hán Việt là Đề Ngạn, chỉ thành phố gần đê dọc kênh tàu Hủ) mà người Quảng Đông đọc là “Thầy Ngòn” hay “Thì Ngòn” (4).


Bài này có mục đích giới thiệu lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa thành phố Chợ Lớn trong hơn 200 năm qua từ lúc người Hoa đến định cư đông đảo từ Cù Lao phố, Biên Hòa. Sự thăng trầm của Chợ Lớn trực tiếp gắn liền với lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ đã qua. Chủ yếu là trung tâm thương mại, không có quyền lực và ảnh hưởng chính trị, Chợ Lớn không được đánh giá đúng mức về tiềm lực văn hóa, kinh tế trong các nỗ lực ưu tiên đầu tư để phát triển kinh tế, hạ tầng cơ sở xứng đáng với tầm vóc của thành phố này, cũng như phát triển văn hóa và bảo tồn các đặc trưng mà con người, trong đó người Hoa và Minh hương là chủ đạo, đã góp phần tạo thành đặc tính con người văn hóa Nam bộ.


Trong các năm gần đây, cảnh quan đô thị thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đã thay đổi thật nhanh chóng qua sự bùng nổ dân số và kinh tế cùng các cơ sở hạ tầng và sự phình rộng đô thị với nhiều quận mới được thành lập. Không cần một bản báo cáo nghiêm túc về tình hình phát triển và quản lý đô thị vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, hỏi bất cứ cư dân và của những khách viếng thăm về tổng quan về môi trường sinh thái, văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì tất cả đều có cùng nhận xét như người viết :


- Phát triển thiếu bền vững : quá tải, ô nhiểm môi trường khí, nước, vấn đề xử lý chất thải rắn. Giao thông ùn tắc, thiếu cây xanh, nước ngập do lấp kênh rạch (Sài Gòn - Chợ Lớn lịch sử là thành phố sông nước)


- Bảo tồn di sản và phát huy giá trị văn hóa lịch sử : sự biến mất gần đây của nhiều kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử (Bến Bình Đông, Chương Dương, Hàm Tử) qua lợi ích trước mắt chứ không đặt trên cơ sở tìềm năng lâu dài.


Phong thái, phong cách kiến trúc, cảnh quan văn hóa và sinh thái của một thành phố làm nên cá tính của thành phố ấy. Chưa nói đến vấn đề sinh thái, cây xanh (đứng trên tòa nhà cao tầng ở quận 4, chỉ thấy nhà là nhà mới mọc chen chúc mà không có cây xanh nào trong toàn quận), tác giả đã đi qua và ghi lại những gì đã thay đổi trong các năm qua và qua bài này dóng lên tiếng báo động về sự biến mất của những khu phố cổ, những cảnh quan đô thị có giá trị văn hóa được thay bằng những tòa nhà không đồng bộ, nhếch nhác không có đặc thù kiến trúc qua sự thiếu hoạch định các khu phố của chính quyền địa phương.


Đặc biệt nhất là dọc theo rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ trên đại lộ Đông Tây vừa xây và các đường tiếp cận gần đại lộ đi Chợ Lớn. Những nơi này là nơi mà sự thay đổi đã làm các khu phố thay đổi hầu như toàn diện. Các hình ảnh xưa trong bài có nguồn từ (6) và hình ảnh gần đây là của tác giả và nhiếp ảnh gia Kinh Luân, báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn.




Sự thành lập và phát triển Chợ Lớn



Người Hoa, từ Cù Lao phố, Biên Hòa, đã kéo về đây thành lập khu định cư mới vào năm 1778 sau khi Cù Lao phố bị Tây Sơn đánh phá. Họ là hậu duệ những người theo nhà Minh chạy khỏi Trung Hoa thời nhà Thanh đến miền Nam lập nghiệp ở Cù Lao Phố và Mỹ Tho vào năm 1680 sau khi được chúa Nguyễn cho phép.


Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (1) nói về vùng Chợ Lớn là nơi phố thị buôn bán sầm uất, sinh hoạt văn hóa, kinh tế nhộn nhịp cuối thế kỷ 18 như sau :


Phố chợ Sài Gòn :


Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có : gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán : Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu ; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán ”.


Khi từ Cù Lao Phố đến vùng nay gọi là Chợ Lớn cũ, đã có làng Minh Hương của người Việt gốc Hoa thành lập trước từ năm 1698 cũng do người Hoa nhà Minh đến định cư. Nhưng chỉ 4 năm sau, năm 1782, Tây Sơn Nguyễn Nhạc vào trở lại đánh thành Phan Yên (Phiên An, thành Sài Gòn sau này) ở Gia Định và sau đó đánh luôn Chợ Lớn khu người Hoa ở, tàn sát họ rất nhiều.


Theo Vương Hồng Sển (4) :


Sau trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hóa các tiệm buôn Tàu như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị tuôn ra bỏ bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai dám rớ dám mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hóa vụt lên mà ngợp : kim may mỗi cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân,... Còn nói chi số binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước, xác ma da, thằng chỗng kẹo lềnh một khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc mà ớn xương sống không dám rớ đến miếng thịt xương thịt cá ! Nhưng người Tàu quả là giống dân giàu tính nhẫn nại nhất thế giới : tính coi họ thất bại to tát làm vậy mà họ không bỏ cơ sở làm ăn. Ít lâu sau họ gầy dựng lại cơ sở Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn trước bá bội.


Họ lấy đất đắp thêm bờ kinh chỗ mới tạo lập, cẩn đá thêm cao ráo và kiên cố. Và có lẽ để ghi nhớ công trạng này họ đặt tên chỗ mới là “Tai-Ngon”, hoặc “Tin-Gan”, mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra “Thầy Ngồn” hay “Thì Ngòn”. Xét theo mặt chữ, thì “Tai-Ngon”, “Tin-Gan”, “Thầy Ngồn”, “Thì Ngòn” đọc theo giọng Việt là “Đề Ngạn” :


Đề, Đê : là cái bờ, cái đê ngăn nước.


Đề : cũng có nghĩa là nắm lấy (Đề cương khiết lãnh là nắm lấy cái dây lớn của cái lưới, tức nhiên cả cái lưới sẽ trương ra ; kéo cái cổ áo thì cả chiếc áo nhấc lên. Nghĩa bóng : nắm lấy chỗ chủ yếu. Kể ra khi đi lựa địa thế, đã là đặt cả một hy vọng lớn rồi.)


Ngạn : bờ sông cao dốc.


Đề Ngạn là vùng Chợ Lớn cũ ngày nay vậy (truy ra là xóm Quảng Đông Nhai chỗ miếu Quan Đế, miếu Tam Hội) ”.


Khu cổ nhất ở vùng Chợ Lớn là xóm người Khmer chung quanh chùa Cây Mai và Phú Lâm. Chùa Cây mai, sau này thành đồn Cây Mai từ lúc Pháp đến đánh Sài Gòn đến ngày nay, nằm ở khu vưc gần các đường Nguyễn Trãi, Hồng Bàng và Nguyễn Thị Nhỏ. Chợ Lớn lúc đầu chỉ là tập hợp của nhiều làng, xóm chung quanh các kinh rạch. Nhiều làng xóm chuyên làm những nghề thủ công nghệ, sản xuất,.. mang tên đặc trưng của xóm đó như Xóm Dầu (sản xuất dầu dừa, dầu đậu phọng), Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Lò Gốm,…


Ta hãy đọc tiếp theo, trên đường đi từ Sài Gòn đến Chợ Lớn, đoạn Trương Vĩnh Ký viết về Chợ Lớn (2) :


Chợ ở Chợ Lớn xưa là chợ ở vùng Chợ Rẫy ngày nay. Vùng ở giữa đường Đồng Khánh (rue des Marins) cho đến rạch Chợ Lớn (arroyo de Cholon) là nơi cư ngụ của người Minh hương, người Hoa lai Việt, mặc đồ như người Việt và có làng được đặc quyền riêng. (Chú thích : khu này gọi là làng Minh Hương, hiện nay còn lại ngôi nhà xưa nhất Sài Gòn-Chợ Lớn gọi là Minh Hương Gia Thạnh xây năm 1789. Làng Minh Hương đã có từ năm 1698. Ở Phú Thọ Hòa còn có chùa Giác Lâm, ngôi chùa cổ xây năm 1744).


Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là những nhà kho lớn xây bằng gạch, gọi là "Tàu khậu". Những "Tàu khậu" này được cho những người Hoa từ Trung Quốc đến mướn. Họ đến một lần mỗi năm trên những ghe thuyền vượt biển. Họ mang và chứa những hàng vào các kho này. Từ những kho này, họ bán sỉ hay lẻ trong lúc họ tạm trú ở Sài Gòn. Cầu dẫn đến khu chợ lớn (Chợ Rẫy ngày nay) gọi là "Cầu đường", gọi vậy là vì tại đây họ bán đủ loại đường như viên, hủ đường etc..


Trên bờ của rạch chảy qua trước nhà của ông tổng đốc (tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một người Minh hương) là con đường "Phố xếp" (rạch này cũng gọi là rạch Phố xếp sau này được lấp đi thành đường Tổng đốc Phương, nay gọi là Châu Văn Liêm), và cây cầu trên đường đi Cây Mai có tên là "Cầu phố". Ở góc hai kinh (Chợ Lớn và Phố xếp), từ chợ cho đến cầu sắt, là làng Quới đước và chợ "Chợ kinh".


ab

Hình 1: Chợ Lớn 1874 – Cho thấy rõ, Kênh Tàu hủ, rạch Bãi sậy
và rạch Chợ Lớn chảy qua khắp khu vực thành phố Chợ Lớn
(ngày nay rạch Chợ Lớn đã lấp)


ac

Hình 2 : Bản đồ Chợ Lớn 1893 (nguồn : Tour du Monde 1893)
Các rạch ở trung tâm Chợ Lớn đều còn (rạch Chợ Lớn, rạch Lò Gốm)



Hai bên rạch Chợ Lớn từ Cầu Đường cho đến Cầu Khâm Sai và Lò Gốm là nhà cửa san sát nhau. Chợ Lò rèn, ngay tại nhà thờ Chợ Lớn ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký, tức nhà thờ Cha Tam ngày nay) là nơi ở của các thợ rèn và những thợ làm thanh sắt (Quân mậu tài). Trong lúc đi đến chùa Cây Mai, người ta gặp một cầu gọi là Cầu Ông Tiều.


ad

Hình 3 : Canal Bonard trong Chợ Lớn
(rạch Bãi Sậy hay còn gọi là kinh Hàng Bàng)


ae

Hình 4 : Thành phố Chợ Lớn - 1930



Chùa Cây Mai ngày xưa là chùa Cao Miên, bao bọc tứ phía bởi đầm lầy. Trong các đầm này có các cuộc đua thuyền trong ngày lể Phật. Chùa này đã được người Việt phục hồi lại. Dưới thời Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương đến Nam Kỳ cùng với Phan Thanh Giản, đã cho xây một tầng nhà cảnh. Tên chùa và đồi nhỏ ở đây là từ cây mai, một loại cây có bông trắng rất được ưa chuộng và cho là quý bởi người Hoa và người Việt.


Nhà kiểm tra (tòa hành chánh) ở Chợ Lớn trước kia là nơi ở của tri huyện Tân Long ”.


af

Hình 5 : Nhà người Hoa ở Chợ Lớn 1872
nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (6) (7)
(Đây có thể là khu gần chùa Cây Mai vì kiến trúc nhà
là Khmer có mái cong, không phải là nhà theo kiến trúc người Hoa)


ag

Hình 6 : Phòng thanh tra (Bureau de l’Inspection) Chợ Lớn 1910.
Kế bên trái Phòng thanh tra là Tòa đô chánh (Hotel de ville) Chợ Lớn.
Chợ Lớn lúc này là tỉnh lỵ của tỉnh Chợ Lớn.



ah

Hình 7 : Nhà hát Trung hoa – đường Phùng Hưng (rue de Paris) – Chợ Lớn.
Trên đường Phùng Hưng, chủ yếu là người gốc Phúc Kiến ở,
cũng có một nhà thờ đầu tiên xây năm 1866 dành cho người Hoa,
nay là văn phòng báo Sài Gòn Giải phóng.



Trong thời gian Pháp còn đang đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn, chuẩn đề đốc (contre-amiral) Page đã nhanh chóng cho xây dựng các kho hàng và mở cửa cảng Sài Gòn-Chợ Lớn cho việc buôn bán với bên ngoài. Chợ Lớn trở thành trung tâm thương mại, tiếp viện hàng, thực phẩm cho quân Pháp. Cũng chính vì yếu tố này mà Nguyễn Tri Phương từ đồn Kỳ Hòa đã cho quân đánh cắt đường của Pháp từ đồn Cây Mai vào Chợ Lớn, những trận chiến lớn ban đầu là giữa đồn Cây Mai, đồn clochetons (hình tháp chuông) và chiến tuyến chiến hào mà người Pháp gọi là đồn Redoute của quân triều đình cách đó không xa khoảng 400 hay 500m giữa đầm ruộng đầy mồ mả quanh đồn (chùa) Cây Mai (17).


Nắm được Chợ Lớn là nắm vị trí chiến lược. Rạch trong Chợ Lớn chằng chịt và vì thế các tàu chiến Pháp đều đến án trong các rạch. Tàu Jaccaréo, một loại chiến thuyền “Lorcha” gốc Bồ Đào Nha của hải quân Pháp đã tải súng đạn và tiếp viện cho đồn Cây Mai. Sau này trong Chợ Lớn, người Pháp đặt tên con đường Jaccaréo nơi chiến hạm Jaccaréo đã vào án ngự (Tản Đà ngày nay). Theo Leopold Pallu (17), trong khi đoàn quân Pháp đánh Sài Gòn thì người Pháp đã mở cảng, buôn bán với người Hoa trong Chợ Lớn trong giai đoạn này và đã thu được lợi nhuận khổng lồ :


Bảy mươi tàu và một trăm ghe thuyền chuyên chở sáu mươi ngàn tấn gạo trong vòng bốn tháng cho thị trường Hồng Kông và Singapore, đem đến một lợi tức khổng lồ cho ta. Đồn Cây Mai giúp cho việc buôn bán dễ dàng, người ở một số làng đổ đến vì thấy cái lợi lớn mà người Pháp đã đem tới cho họ ; số người Pháp trong đồn ít và không làm khó dễ họ gì cả. Người Hoa tiếp tục theo tính cách của họ, tìm cách bảo vệ việc buôn bán bằng cách lấy lòng cả hai bên An Nam và Pháp. ”


Thành phố người Hoa (tức Chợ Lớn, ghi chú người dịch) là chìa khóa của tất cả thương mại ở Nam Kỳ miền dưới (basse Cochinchine) (tức miền Tây, ghi chú người dịch). Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt của người dân trong phần đất An Nam này ”.


Pallu nói về người Hoa ở Chợ Lớn :


Nhiều người thật giàu có ; một số trong họ thuê trực tiếp các tàu người Âu để liên hệ với Ấn Độ, đảo Réunion hoặc Trung Quốc. Phải xác nhận là ngày nay tình thế khó khăn do sự chiếm đóng của người Pháp, gây nên sự bất định về thông tin mà các thương gia ở Sài Gòn thì phải dựa vào giá cả ở thị trường HongKong và Thượng Hải, vì thế người Hoa họ đã lập hẳn một hệ thống chuyển thư riêng của họ giữa Sài Gòn và Quảng Châu....


Trung tâm mà người Hoa vào An Nam là thành phố Chợ Lớn, chỉ cách Sài Gòn có hai dặm. Đó là thành phố hoàn toàn người Hoa cư ngụ. Người Hoa ở đây gồm có bảy bang, mỗi bang có một người lãnh đạo gọi là Hong Phoo ; các người Hong Phoo đều đeo một nút màu vàng biểu hiện cho sự khoan dung và uy quyền. Sau trận đánh ở chùa Clochetons vào năm 1860, ta thấy hết sức rõ ràng là thị trường người Hoa sẽ vĩnh viễn lọt vào tay ta, cho nên các người Hong Phoo đều đến xin ta bảo trợ, và ta đã chấp thuận ”.


Chỉ vài năm sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, Chợ Lớn đã thay đổi nhanh chóng. Lúc phái bộ Phan Thanh Giản trở về Sài Gòn năm 1864 sau khi qua Pháp điều đình, đại úy Boresse đã dẫn Phan Thanh Giản và một số tùy tùng đến bến cảng Chợ Lớn dọc kênh Tàu Hủ tham quan. Dưới ô lọng che, Phan Thanh Giảng đã chứng kiến sự biến dạng cảng thương mại to lớn tột cùng. Trong lòng ông, đã thay đổi, nhưng còn triều đình ?


Thị trưởng thành phố Chợ Lớn trong thời gian 1880-1884 là ông Antony Landes. Ông Landes còn là hội viên Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises), tác giả nhiều bài viết và sách về văn hóa, văn minh Việt Nam và Chăm nổi tiếng (như Contes Tjames 1887, 1886, Contes et légendes annamitesNotes sur les moeurs et superstitions populaires annamites 1880, dịch tác phẩm Nhị Độ mai ra tiếng Pháp, Les pruniers refleuris ; poème Tonkinois, 1883). Ông mất lúc còn trẻ cùng với vợ và một cô bạn gái trong một tai nạn đụng tàu trên sông Sài Gòn ngày 23 tháng 2 năm 1893. Tàu Donnai (Đồng Nai) trong chuyến dạo thăm Biên Hòa, lúc trở về vào gần giữa đêm đụng phải tàu hơi nước Le Mouhot của công ty vận tải đường sông (Messageries fluviales), tàu Donnai chìm làm cả ba chết đuối, không tìm được xác (10). Hội nghiên cứu Đông Dương mất đi một nhà nghiên cứu văn hóa xuất sắc. Tất cả sách vở, bản thảo, tư liệu của ông sau này được gia đình người em trai của ông tặng cho Hội Á Châu (Société Asiatique) ở Paris (12). Gần đây, nhà khảo cổ Nguyễn Thị Hậu cho biết là năm 1998, một chiếc tàu chìm được khám phá ở thượng lưu sông Sài Gòn như sau :


Một di chỉ khác nằm cách thượng lưu sông Sài Gòn khoảng 1km, có niên đại khá muộn, được Bảo tàng Quân Khu 7 phát hiện năm 1998. Đó là một con tàu đắm có vỏ bọc bằng sắt, bên trong chứa nhiều hiện vật như : thanh gươm có khắc tên chủ nhân là người Pháp ; một chiếc gậy chống bằng gỗ bịt bạc ở đoạn cuối, đoạn tay cầm là một chiếc răng nanh heo rừng nối với thân gậy bởi một khoen bằng bạc chạm hình rồng, một thùng rượu bằng gỗ được ghép bằng vành đai kim loại, một đồng xu lớn đề chữ Indochine Française (Đông Dương thuộc Pháp) phát hành năm 1886, một bình bông treo tường đáy nhỏ, miệng loe bằng gốm men xanh trắng (Phúc Kiến) có đắp nổi hình một ông tiên, trên đầu là hình cây đào, cành mai chạm lộng ; một nồi Supde có đường kính thân 170cm, cao 200cm, bằng sắt đã bị hư hỏng nặng. Theo lời kể của các thợ lặn, còn có 2 sọ người nằm ở vị trí con tàu nhưng không được vớt lên. Vỏ tàu cũng đã bị rỉ sét, mục nát nhiều.


Theo các nhà nghiên cứu, đây có thể là một con tàu tuần tiễu trên sông bằng sắt, chạy bằng hơi nước của chính quyền Pháp tại Sài Gòn. Thời điểm tàu chìm là trong khoảng thời gian từ 1886 đến đầu thế kỷ XX.”


Như vậy khả năng rất lớn là chiếc tàu chìm được khám phá vào năm 1998 chính là tàu Donnai bị chìm năm 1893 mà ông Landes đã đi dạo trên thuyền cùng với vợ và bạn tháng 2 năm 1893.


ai

Hình 8 : Tòa đô chánh thành phố Chợ Lớn (ngày nay không còn), trước kia nằm trên khu đất mà ngày nay là khuôn viên Đại học Y Khoa Sài Gòn. Tòa nhà nhìn ra đường Cây Mai (Nguyễn Trãi) và Avenue de Jaccaréo (Tản Đà) (ngay ngã ba đường Cây Mai và Jaccaréo, đường Jaccaréo đâm thẳng vào là đụng tòa đô chánh. Trong bản đồ 1893 Tour du Monde, đường Jaccaréo từ rạch Tàu Hủ đến đường Cây Mai là chấm dứt, chưa thông qua đường Charles Thomson) và đường xe tramway Chợ Lớn - Sài Gòn, bên phải là rue des Clochetons (Phù Đổng Thiên Vương) và phía sau là Boulevard Charles Thomson (Hồng Bàng) và đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Đường Jaccaréo được người Pháp đặt theo tên một chiến hạm Jaccaréo, trong chiến dịch vây đánh Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1859, đã đậu trên con rạch dẫn vào Chợ Lớn và đồn Cây Mai (nay đã lấp trên đường Tản Đà) thông với kênh Tàu Hủ.


aj

Hình 9 : Cây cổ thụ góc đường Tản Đà và Nguyễn Trãi, trong khuôn viên bệnh viện,
là vết tích duy nhất cạnh tòa đô chính Chợ Lớn còn lại.


ba

Hình 10 : Những căn nhà của khu phố cổ còn sót lại ở đường Tản Đà


Từ năm 1889, tỉnh Chợ Lớn được thành lập gồm thành phố Chợ Lớn, huyện Bình Chánh, một phần của tỉnh Long An ngày nay (Gò Đen, Đức Hòa,..) trong khi Sài Gòn thuộc tỉnh Gia Định. Sự độc lập làm thành phố Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ hơn. Sau khi sáp nhập tỉnh sau 1975, thì Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành một phần của địa phận thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Lớn không còn trở thành cái nôi kinh tế như trước đó. Tuy vậy sức mạnh kinh tế trong Chợ Lớn vẫn đa số nằm trong tay người Hoa.


Các thương gia người Hoa ở Chợ Lớn cũng thường tiếp xúc, lên hệ với các người Hoa ở Đông Nam Á : họ đã có những liên hệ thương mại mật thiết với các cộng đồng người Hoa ở Indonesia, Singapore và Mã Lai. Ở Chợ Lớn có hai câu lạc bộ của người Hoa Singapore, một thiết lập năm 1878 tọa lạc ở số 64 đường Paris (Phùng Hưng kế đường Phúc Kiến) và một thành lập năm 1886 ở số 105 đường Rue des marins (Đồng Khánh sau này là Trần Hưng Đạo nối dài) sau khi có sự đòi hỏi từ lãnh sự Anh ở Sài Gòn năm 1885 (5). Chủ yếu họ mua bán lúa gạo, nông phẩm, thầu xây dựng địa ốc, sản xuất thuốc phiện. Lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp từ các tỉnh miền tây mang vào Chợ Lớn - Sài Gòn và xuất khẩu qua nhiều nước ở Đông Nam Á.


Có từ hai mươi đến ba mươi gia đình người Hoa ở Malacca và Singapore trú tại Chợ Lớn, phần lớn trên đường Phúc Kiến, vì thế đường này được họ gọi là “đường Baba” (rue des Baba). Baba là tên những người Hoa ở vùng Strait Settlement (Singapore và Malaysia) tự gọi (5). Qua sự liên hệ thương mại giữa người Hoa ở Chợ Lớn và các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Hong Kong, ta cũng không lạ gì nhiều nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn nhập máy xay bằng hơi nước hiệu “Barley Mill” từ Anh qua Singapore hay Hong Kong mặc dầu có sự phàn nàn từ người Pháp do không mua máy của Pháp (11). Các thương gia nổi tiếng người Hoa từ Singapore là ba anh em Tan Keng Ho (Trần Khánh Hòa), Tan Keng Hoon (Trần Khánh Vân), Tan Keng Sing (Trần Khánh Tinh) và ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) đều có nhà máy xay lúa hay phần hùn trong đó.


Người Pháp gọi ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) bằng tên Ban-hap (Vạn Hòa). Vạn Hòa là tên công ty mà ông Wee Tin lập ra ở các tỉnh miền Nam trồng và buôn bán thuốc phiện, lúa gạo trong các năm ở thập niên 1850, trước khi người Pháp đến (5)(14). Công ty Vạn Hòa sau đó làm ăn phát đạt mở rộng đến Cam Bốt với các đặc quyền từ vua nước này cho phép trồng, sản xuất thuốc phiện năm 1869 và ở Nam Kỳ năm 1869 được chính quyền Pháp tiếp tục cho phép độc quyền mặc đầu bị sức ép của các thương gia và công ty Pháp muốn cạnh tranh ở Cam Bốt. Ban-hap còn có độc quyền ở Cam Bốt sản xuất bán vé số, mở các tiệm cầm đồ, sòng cờ bạc, trại nuôi và bán thịt heo. Ông Trần Khánh Hòa cũng thành công và có thế lực kinh tế không kém ông Vạn Hòa. Ngày 8/7/1869, đề đốc Ohier đổi tên Ủy ban thành phố (Commission municipale) mà trước đó vào năm 1867 thống đốc de la Grandière đã thành lập sau khi Pháp vừa chiếm Sài Gòn, thành tên chính thức Hội đồng thành phố Sài Gòn (Conseil municipal de la ville de Saigon), gồm 1 thị trưởng và 13 hội đồng viên với nhiệm kỳ 2 năm (7 người được bầu và 6 người được thống đốc chọn), trong đó có Trương Vĩnh Ký và Tang keng Ho (Trần Khánh Hòa). Đây là Hội đồng thành phố đầu tiên của Sài Gòn (16).


Nhà máy xay lúa bằng hơi nước đầu tiên ở Việt Nam được thành lập ở Chợ Lớn vào năm 1874. Đó là nhà máy của ông Spooner bỏ tiền ra đầu tư, hầu hết các xưởng nhỏ còn lại dùng cối xay lúa gạo là của người Hoa ở Chợ Lớn.


Nhưng không lâu sau, các người Hoa cũng xây các nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước. Cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Chợ Lớn bắt đầu. Năm 1897, có 9 nhà máy xay lúa (8 ở Chợ Lớn và 1 ở Khánh Hội), trong đó có 7 nhà máy là vốn của người Hoa và 2 nhà máy vốn của người Pháp, Đức và Hoa. Đến đầu thế kỷ 20, năm 1900 thì cả thảy 9 nhà máy ở Chợ Lớn đều là của chủ người Hoa, với giám đốc điều hành là người Pháp (8).


bb

Hình 11 : Nhà máy xay lúa, dọc kênh Tàu Hủ ở Chợ Lớn


bc

Hình 12 : Gạo xay rồi được mang lên tàu ở kênh Tàu Hủ


bd

Hình 13 : Gạo chất ở bến


be

Hình 14 : Một nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn. Hình ảnh của ông Nadal,
nhiếp ảnh người Pháp xuất bản trong sách Album illustré de 456 gravures sur cuivre
tựa đề La Cochinchine (Nam Kỳ), xuất bản năm 1926, nguồn La Belle Indochine.






Tất cả các nhà máy xay lúa đều ở gần bờ sông rạch để tiện mang lúa xuống từ các ghe, thuyền ở các tỉnh miền Tây đến và để mang gạo mới xay đi xuất cảng ra các nước khác. Nước dùng cho máy xay bằng hơi nước lấy từ nguồn rất thuận lợi ngay tại sông, rạch dọc nhà máy. Nhiên liệu được dùng để đốt chạy máy hơi nước là vỏ trấu.


Có 3 loai gạo : gạo “Baixau” hột dài và thon (giá cao nhất), gạo Vĩnh Long hột dài và to và gạo Gò Công hột ngắn, to mập (11). Bốn nhà máy của người Hoa có bắt điện ban đêm và họ thiết lập các cột đèn (arc lamp) có độ sáng cực mạnh dọc bến tàu để hoạt động và chuyển lúa gạo lên xuống suốt đêm


Nhà máy hoạt động xay lúa cho riêng chủ hay xay lúa cho các nguời khác qua hợp đồng xay. Trong lúc xay riêng, nhà máy mua thẳng lúa từ nông dân vào lúc đầu mùa gặt vào khoảng tháng 12 và tháng 1 và được chứa trong kho để xay khi có nhu cầu xuất khẩu hay mua lúa từ các nhà buôn trong các tháng khác. Vì mua với số lượng nhiều, số vốn của nhà máy vì vậy bỏ ra rất lớn. Một vài nhà máy có trong kho trữ luợng lúa trị giá đến 1,5 triệu dollar (11).


Đường Phùng Hưng (rue de Paris) và đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) là hai con đường chính buôn bán sầm uất, được coi là trung tâm sinh hoạt thương mại và văn hóa chính của người Hoa ở cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Xưa kia ông Vương Thái (Wang-Tai), một triệu phú người Hoa gốc Quảng Đông từ Hồng Kông, có một nhà ở đường Triệu Quang Phục. Hai con đường này nằm ở hai bên khu chợ Chợ Lớn cũ nằm giữa. Sau này chợ Chợ Lớn được dời đến chợ Bình Tây.


bf

Hình 15 : Một góc trên đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) ngày nay.




Nhà văn Marguerite Durras đã có đề cập đến sinh hoạt của người Hoa ở đường Phùng Hưng trong tác phẩm L'Amant của bà. Đường Phùng Hưng là nơi nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến đến định cư. Cũng không lạ gì mà trước đây các thương gia Singapore và Mã Lai gốc Phúc Kiến đã tụ tập ở đường Phùng Hưng. Tại đây ở số 203 Phùng Hưng là tòa nhà lớn của Tổng Thương hội Hoa kiều mà trước đây có đề cập nhiều trong sách Hoa Kiều Chí của các nhà nghiên cứu Đài Loan hồi thập niên 1960s (thông tin do bác Trần Đại Tân ở Hội Văn học Nghệ thuật người Hoa cho tác giả biết). Sau này trong thập niên 1990 là trụ sở của Ngân hàng Việt-Hoa, và ngày nay là trụ sở của báo Sài Gòn Giải Phóng.


Đường Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và được coi là trung tâm Chợ Lớn. Nhà Xã Tây (Hotel de Ville) ở cạnh đây (gọi là Xã Tây vì là tòa nhà hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập, xuất cảnh và giấy tờ). Vùng này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã.


bg

Hình 16 : Chợ Bình Tây – Để ý phía trái, rạch bãi Sậy vẫn còn





Rạch Bãi Sậy (còn gọi là kinh hay rạch Hàng Bàng) xưa rất trù phú, nhà cửa hai bên san sát. Rạch nối với rạch Lò Gốm và xa nữa là Rạch Cát. Rạch Bãi Sậy sau đó (bắt đầu từ năm 1968) dần bị người dân xây lấn nhà quanh rạch, và hiện nay hầu như hoàn toàn bị lấp để trở thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khỏe. Trước đây, dọc theo rạch Bãi Sậy là nhà cửa người Hoa san sát nhau và hai bên có trồng các cây bàng rất đẹp mắt và cho nhiều bóng mát (vì thế gọi là kinh Hàng Bàng). Năm 1945, quân Nhật đã chặt các cây bàng để làm hầm núp phía cầu Bình Điền gần đó (4).


bh

Hình 17 : Bến Bãi Sậy và cầu Ba Cẳng (phần phía trên của hình), cầu Palikao ở giữa hình. Ngày nay rạch bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Cầu Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một câu gần Bắc Kinh, gọi là Bát lí kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh. Quân Thanh thua và Bắc Kinh bị chiếm và cung điện mùa hạ bị đốt cháy. Hòa ước Thiên Tân sau đó được ký kết. Lúc này cũng là lúc quân Pháp cùng với đề đốc Page và Charner rút quân chủ lực ở Sài Gòn qua Trung Quốc, chỉ để lại số ít cầm cự với quân triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy ở đại đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa), phản công để lấy lại Sài Gòn-Chợ Lớn.


Theo bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ hoàn toàn.



bi

Hình 18 : Cầu trên rạch bãi Sậy




bj

Hình 19 : Rạch Bãi sậy còn sót lại, trên Đường bến Bãi Sậy ngày nay
– hình chụp từ trên “cầu Gò Công” (cầu nhỏ chỉ xe gắn máy đi được)



ca

Hình 20 : Tàn dư của Rạch Bãi Sậy ngày nay, hình chụp từ “cầu Gò Công”



Gần cuối rạch bãi Sậy, nơi rạch rẽ quẹo phải vào kênh Tàu Hủ có cầu Ba Cẳng (phía sau chợ Kim Biên), hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập. Gần cầu Ba Cẳng, ở ngã ba rạch Bãi Sậy từ kênh Tàu Hủ và rạch chạy đến đường Kim Biên (tiếng Quảng Đông nghĩa là Cao Miên, vì trước đây gọi là đường Cao Miên hay rue de Cambodge) là đường Gò Công, đây là đường từ Chợ Lớn đi xuống Gò Công (cầu Ba Cẳng có bậc đi xuống đường Gò Công). Trụ sở và xưởng sản xuất “xà bông Việt Nam” nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên.


cb

Hình 21 : Pont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin
(công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo
Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.


cc

Hình 22 : Khu vực cầu Ba Cẳng (góc rạch trước kia nối rạch Bãi Sậy ở phía trái và rạch Tàu Hủ).
Chợ Kim Liên ở đằng sau hình. Nay hoàn toàn nghẽn.



cd

Hình 23 : Đoạn này trên Đại lộ Đông-Tây, trước kia nối kênh Tàu Hủ
với rạch Bãi Sậy qua đoạn cầu Ba Cẳng.




Rạch Chợ Lớn (cũng gọi là rạch Cầu Đường) từ kênh Tàu Hủ đi lên trung tâm Chợ Lớn ngày nay, sau đó lên tận đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai. Khúc gần Cầu Đường là bến Gaudot (quai de Gaudot) nơi có trụ sở nhà buôn Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp, chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn. Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872 (13). Rạch Chợ Lớn chảy từ Kênh Tàu Hủ lên bến Gaudot, kế đó là đến bến Foukien (quai de Foukien, nay là đường Trang Tử - bến xe Chợ Lớn) và cho đến đoạn gần rạch Lò Gốm ngày nay (đoạn này bây giờ là đường Lê Quang Sung).


Sau khi rạch Chợ Lớn bị lấp, bến Gaudot trở thành đường Quai de Gaudot (năm 1955 là đường Khổng Tử, ngày nay là đường Hải Thượng Lãn Ông). Tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là Ecole de Foukien). Trường, nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chổ nghĩ ngơi và tắm ngựa.


Đường Hãi Thượng Lãn Ông, ngày nay bắt đầu từ Đại lộ Đông Tây ở kênh Tàu Hủ, là con đường chính ở Chợ Lớn. Ở đường này vẫn còn một ít các tòa nhà cổ, to lớn và có thể được coi là đẹp nhất ở Chợ Lớn. Xưa kia, trong thập niên 1960, “vua bột ngọt”, ông Trần Thành cư ngụ trên con đường này.


ce

Hình 24 : Tòa nhà cổ vẫn còn ở đường Hãi Thượng Lãn Ông giữa sự thay đổi nhanh chóng
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)


cf

Hình 25 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông đang thay đổi với các tòa nhà cổ bị áp lực
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)



cg

Hình 26 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông



ch

Hình 27 : Nhà cổ trên đường Hãi Thượng Lãn Ông




ci

Hình 28 : Một góc đường trên đường Hãi Thượng Lãn Ông



Từ Sài Gòn vào Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 19 có hai con đường chính : Nguyễn Trãi (route haute) và đường dọc theo rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ (route basse). Sau này đầu thế kỷ 20, con đường Avenue Galliéni (Trần Hưng Đạo) và Rue des Marins (Trần Hưng Đạo nối dài) mới được thành lập nối chợ Sài Gòn vào Chợ Lớn.


cj

Hình 29 : Một góc phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài


da

Hình 30 : Phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài



Cảnh quan đường Trần Hưng Đạo ngày nay hầu hết đều biến dạng thay đổi. Các tòa nhà đầu thế kỷ 20 gần như biến hết, chỉ còn một số ít cuối đường Trần Hưng Đạo nối dài ở Chợ Lớn.



db

Hình 31 : Chợ vùng Chợ Lớn


dc

Hình 32 : Khu chợ, Chợ Lớn


dd

Hình 33 : Chợ Lớn, Nhà máy rượu, đường Gò Công ngày nay


de

Hình 34 : Xe điện dọc bến rạch Chợ Lớn, nay là bến xe Chợ Lớn




Theo Eugene Bonhoure (8), năm 1900 dân số Chợ Lớn là 121 987 người, trong đó có 41 588 người Hoa, 80 061 người Việt, 166 người Âu (trong đó có 135 người Pháp, số còn lại là người Miên, Ấn, Mã Lai, Nhật và Tagal (gốc Phi Luật Tân)). Lúc này Chợ Lớn thông thương với Sài Gòn qua 1 đường xe lửa chính, 2 đường xe lửa (tram) chạy bằng hơi nước và các đường bộ và có 9 nhà máy xay lúa sản xuất gạo mà chủ là người Hoa. Số lúa xay là 96 000 picul (1 picul, hay tạ Trung quốc là 68kg), sản xuất được 44 000 piculs gạo “cargo” (không trắng và láng) và 24200 piculs gạo trắng.



df

Hình 35 : Phú Lâm – một góc chợ


dg

Hình 36 : Phú Lâm – đường đi Mỹ Tho, tiệm cầm đồ


Người Hoa nổi tiếng ở Sài Gòn - Chợ Lớn cuối thế kỷ 19 là ông Cheung Ah Lum (Trương Á Lâm, hay Zhang Peilin, Trương Bội Lâm). Cũng như ông Ban-hap (Vạn Hòa, tên thật là Gan Wee Tin hay Nhan Vĩ Thiên), người Pháp gọi ông là Wang-Tai (Vương Thái). Wang-Tai là tên công ty ông lập ở Sài Gòn sau khi ông đến từ Hồng Kông vào năm 1862 để giao các tàu buồm (junks) mà một sĩ quan người Pháp, đại diện cho chính quyền Pháp mới thành lập ở Sài Gòn, đã đến Macao trước đó vào năm 1860 để đặt hàng đóng các tàu từ công ty của ông ở Macao (14). Sau khi giao tàu xong, ông quyết định ở lại định cư hẳn tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Có kinh nghiệm ở Hồng Kông khi người Anh đến ở đó để lập thuộc địa, công ty Wang-Tai đi ngay vào kỹ nghệ xây cất, thiết lập các xưởng gạch và xây các nhà kiểu Âu châu khi người Pháp còn chân ướt chân ráo. Các nhà này được cho mướn cho chính quyền Pháp và Phòng Thương mại mà ông là một hội viên từ lúc ban đầu. Ông trở thành phát đạt và giàu có còn hơn lúc ở Hồng Kông.


Lúc còn ở Hồng Kông, có lần ông suýt bị rơi vào vòng lao lý khi một hôm, vào ngày 15/1/1857, công ty làm bánh mì của ông (Esing Bakery) sản xuất bánh mì có chứa độc tố arsenic làm nhiều người bị ói mửa ngày đó. Trong số rất nhiều thợ mà ông không kiểm soát được, có một số đã bỏ arsenic để đầu độc đa số các người Anh ở Hồng Kông. Ông bị đưa ra tòa, nhưng vì không có chứng cớ và với luật sư giỏi ông được tha bổng, nhưng không được lui tới ở Hồng Kông trong 5 năm. Vì thế ông đến Macao (nơi ông học buôn bán lúc còn nhỏ với chú ông) mở tiệm và xưởng sau biến cố này, và chính ở Macao ông gặp đại diện Pháp nhờ ông đóng tàu (15).


Công ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến các năm của thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Sài Gòn, trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các người di dân Trung quốc đến Sài Gòn - Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (14). Năm 1879, ông gởi con ông và một người Hoa Quảng Đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay “Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang.


Ông Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi (sinh năm 1827). Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc ra bến tàu để tiễn ông.


Sau ông Trương Bội Lâm, ở thế kỷ 20 có nhiều nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp nổi tiếng ở Chợ Lớn và có ảnh hưởng khắp miền Nam như các ông Quách Đàm, Trương Văn Bền, Hứa Văn Bon, Trần Thành, Vương Đạo Nghĩa… Tinh thần thương mại, đầu óc mở đường, kiên trường và gan dạ trong thương trường của những người Hoa và người Việt gốc Hoa đã đóng góp to lớn vào sự hưng thịnh không những cho thành phố Chợ Lớn mà cho cả nền kinh tế Việt Nam trước kia và cho đến ngày nay.


Nguyễn Đức Hiệp








THAM KHẢO :


(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, (bản điện tử)


(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.


(3) Les colonies françaises : notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.


(4) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.


(5) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Sài Gòn : notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.


(6) Hình ảnh, tư liệu belleindochine


(7) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, H. Georg (Lyon), 1876.


(8) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.


(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.


(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).


(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du décorticage du riz, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).


(12) Louis Finot, Les papiers de Landes, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.


(13) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935, Contributeur: Cabaton, Antoine (1863-1942). Éditeur scientifique.


(14) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).


(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7.


(16) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917,


(17) Léopold Pallu de la Barrière, Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861, Berger-Levrault et Cie, Paris 5 Rue des Beaux-Arts, 1888.

source
Dien Dan Forum