Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2009

Hình ảnh xưa của miền Nam

Hình ảnh xưa của miền Nam
Hình ảnh xưa của miền Nam magnify
Hình ảnh xưa của miền Nam
Trang - - -
(Bấm nút trên cái hình nhỏ để phóng đại nó ra, sau đó thì dùng nút "Précédente" (hay "Back") của navigateur để trở lại trang nầy)
pagode_cau_ong_lanh.jpg (57309 octets) saigon_pagode_cangio.jpg (56739 octets) saigon_pagode_dakao.jpg (65194 octets) saigon_pagode_dakao1.jpg (67455 octets)
saigon_cau_ong_lanh.jpg (60906 octets) saigon_cau_ong_lanh1.jpg (57657 octets) saigon_cholon.jpg (76155 octets) saigon_cholon1.jpg (68359 octets)
saigon_cholon2.jpg (69525 octets) arroyo_cholon1.jpg (66787 octets) arroyo_cholon2.jpg (51212 octets) saigon_arroyo_cholon.jpg (65469 octets)
cholon_inspection.jpg (65181 octets) saigon_tramway_1897.JPG (54270 octets) cholon_pagode.jpg (70457 octets) cholon_pagode1.jpg (70206 octets)
saigon_riziere.jpg (63817 octets) cholon_theatre_chinois.jpg (56787 octets)

saigon_binh_loi.jpg (77423 octets) saigon_gia_dinh.jpg (48310 octets) saigon_monument_de_doudard_de_la_gree.jpg (122980 octets) saigon_statue_gambetta.jpg (49814 octets)
saigon_statue_amiral_rigault.jpg (55235 octets) saigon_statue_amiral_rigault1.jpg (46289 octets) saigon_statue_eveque_adran.jpg (60666 octets) saigon_statue_mgr_pigneau.jpg (49345 octets)

source

hinhxua.free.fr

Tags: | Edit Tags
Thursday April 23, 2009 - 05:34am (EDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
SÀI GÒN tản mạn ký
SÀI GÒN tản mạn ký magnify
Post subject: Re: SÀI GÒN tản mạn ký
PostPosted: Mon 13 Apr, 2009 23:05:10
Offline
Advanced Member
User avatar

Joined: Fri 12 Dec, 2008 19:18:02
Posts: 152
Người lớn trải nghiệm nhiều, biết nhiều thì tản mạn. Em nhỏ, không biết nhiều, em xin tìm kiếm thông tin cho mọi người đọc chơi. ^_^
Hôm bữa nghe mấy chú, mấy anh nói về người Hoa, người Tàu, svn về lục lại trong kho, thấy có bài này. Đọc qua thì biết là người Hoa đóng vai trò rất lớn trong việc khai hoang và hình thành nên đất Sài gòn - Gia định mình cũng như trong quá trình phát triển cho tới Tp. HCM ngày nay.
Bài này được viết trong Diễn đàn lịch sử Việt Nam


------------------------------------------------------

Đúng ra, việc khai hoang miền Đông Nam Bộ buổi ban đầu là do di dân người Việt tự động vượt biển vào đây tìm đất lập nghiệp không có sự can thiệp hay tổ chức gì của các chúa Nguyễn.

Chỉ từ năm 1698, khi Nguyễn Hữu Kính (có sách gọi là Cảnh) theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào "kinh dịch" (tổ chức việc quản lý hành chính, kinh tế, xã hội) thì đất Đông Phố (tên cũ gọi chung đất Biên Hòa - Gia Định ngày nay) mới bắt đầu chịu sự cai trị của các chúa Nguyễn, và dân số ở đây đã có hơn 10.000 hộ với 200.000 khẩu.
Vì vậy, nét đặc trưng độc đáo nhất của đất Nam Bộ là ngay từ đầu và trong suốt 300 năm sau, đều thuộc quyền tư hữu của nông dân hay điền chủ, chứ không bao giờ thuộc quyền sở hữu tập trung của nhà vua như ở miền Bắc, miền Trung, mặc dù về danh nghĩa quy định đất đai là tài sản của nhà vua. Không phải chỉ dưới thời các chúa Nguyễn trong các thế kỷ XVII, XVIII mà ngay cả dưới thời các vua Nguyễn từ thế kỷ XIX trở đi, để khuyến khích dân đẩy mạnh khai hoang, vua quan triều Nguyễn vẫn mặc nhiên thừa nhận quyền tư hữu đất đai của những người có công khai phá. Trong Gia Định thành thông chí một tác phẩm được viết đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã phản ảnh lại tình hình này như sau: "Dân ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được".
Chỉ từ thế kỷ XVIII trở đi, khi có những đợt di dân khẩn hoang lớn do chính quyền nhà Nguyễn tổ chức, do binh lính thực hiện, hay do "dân có vật lực" chiêu mộ đi khẩn hoang lập đồn điền thì tình trạng di dân tự do khai hoang mới không còn dễ dàng nữa.

Image


Như vậy là quá trình khai hoang châu thổ Nam Bộ dưới thời nhà Nguyễn đã được tiến hành qua ba giai đoạn theo ba phương thức:
1. Giai đoạn đầu trong thế kỷ XVI đến năm 1698, do từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ, chỉ dừng lại ở miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con nước giữa ngọt mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt.
2. Giai đoạn hai là dưới thời các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII, XVIII (từ 1698, đến cuối thế kỷ XVIII). Trong giai đoạn này phương thức từng nhóm nhỏ đi lẻ tẻ vào khai hoang vẫn còn tiếp tục, nhưng chủ yếu đã thêm hai phương thức mới:
- Một là, việc khai hoang lập đồn điền của binh lính quan lại và kẻ giàu có - "dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào lập nên những điền sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự.
- Hai là, do các đoàn quân tướng người Hoa, nguyên là quan lại nhà Minh không chịu khuất phục nhà Mãn Thanh, bỏ chạy sang Việt Nam xin tị nạn làm ăn. Họ cũng tiến hành khai khẩn đất hoang phát triển nghề nông lúc đầu, nhưng chủ yếu chỉ nhằm phục vụ cho việc tồn tại của họ để về sau xây dựng chợ búa, phố xá, đô thị, đẩy mạnh việc mua bán, phát triển thành các vùng Cù Lao Phố, Nông Nại đại phố và Cảng Mang Khảm - Hà Tiên sầm uất phát đạt một thời.
3. Giai đoạn ba dưới các thời vua triều Nguyễn trong thế kỷ XIX (1802 - 1883) Sau khi thắng Tây Sơn, lên ngôi vua năm 1802, Gia Long vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc khai hoang ở đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở các chúa Nguyễn đã đạt được trong thế kỷ XVII, XVIII với tốc độ nhanh hơn, nhất là với các công trình đào kênh lớn như kênh Rạch Giá - Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế... Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ khai hoang trong thế kỷ XIX nhằm 3 mục tiêu:
- Một là, mở mang đất đai canh tác để phát triển sản xuất lương thực, đồng thời để tăng thêm nguồn thu tô thuế.
- Hai là, để bảo đảm an ninh quốc phòng nhất là vùng biên giới phía Tây, thường có quân Xiêm quấy phá và dân bản địa vùng Ba Xuyên - Tịnh Biên cũng đã từng nổi dậy chống nhà Nguyễn. Việc khai hoang, lập đồn điền, đào kênh rạch ở vùng này nhằm mục đích chính yếu là kiểm soát, đề phòng và khống chế sự xâm lược của quân Xiêm và sự chống đối của dân địa phương.
- Ba là, phát triển giai cấp địa chủ làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở Nam Bộ.

_________________
Thôi về đi, đường trần đâu có gì... Có những ai xa đời quay về lại nơi cuối trời làm mây trôi?!


Last edited by svn on Mon 13 Apr, 2009 23:13:22, edited 1 time in total.


Top
Profile
svn
Post subject: Re: SÀI GÒN tản mạn ký
PostPosted: Mon 13 Apr, 2009 23:11:11
Offline
Advanced Member
User avatar

Joined: Fri 12 Dec, 2008 19:18:02
Posts: 152
Image


Sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn về việc đẩy mạnh khai hoang ở Nam Bộ thể hiện rõ trong con số tỷ lệ sau đây: Từ năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn đã ban hành 25 sắc dụ về việc tổ chức khai hoang trên toàn quốc, trong đó có đến 16 sắc dụ cho Nam Bộ, hai ở miền Bắc, một ở Kinh kỳ và sáu ở nơi khác. Nhà Nguyễn cũng đã có nhiều biện pháp khai hoang tích cực:
Trước hết, vẫn khuyến khích di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá, thậm chí vẫn còn trợ cấp thêm tiền thóc, nông cụ, có lệ khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức sắc cho những ai khai hoang nhiều với các mức cụ thể từ 20 mẫu đến 800 mẫu, và cũng có lệ phạt bằng tiền, trừ lương và phạt đánh từ 60 trượng đến 100 trượng đối với các quan chức có trách nhiệm mà để ruộng đất bỏ hoang nhiều hay ít.
Hai là, ra lệnh cho quan lại địa phương phải bảo đảm mức khai hoang lập làng mới để phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh quốc phòng, nhất là ở vùng biên giới với chính sách được miễn thuế 3 năm nay hay lâu hơn và được thưởng phạt rõ ràng nghiêm khắc.
Ba là bản thân triều đình cử những đại quan đứng ra tổ chức binh lính hay mộ dân khai hoang lập đồn điền, xây dựng làng ấp, và đào những công trình thủy lợi quy mô để phát triển nông nghiệp và giao thông đường thủy.

Do đó, công cuộc khai hoang đào kênh phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ dưới thời các vua Nguyễn nổi lên 3 đặc điểm đáng chú ý sau đây:
- Một là, triều đình cử đại quan trực tiếp thực hiện.
- Hai là, với những công trình thủy lợi quy mô lớn bằng hệ thống kênh mương nhân tạo thích hợp để giải quyết tích cực việc dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp.
- Ba là, bên cạnh lực lượng cá nhân nhóm nhỏ lẻ tẻ tiểu nông và quân lính quan lại triều đình, lực lượng "dân có vật lực" chiêu mộ người nghèo đi khai hoang lập ấp ngày càng nhiều do chính sách khen thưởng khích lệ tích cực của triều đình, tạo ra tầng lớp điền chủ mới đông đúc, đưa đến tình trạng tranh giành, kiêm tính, chiếm đoạt ruộng đất, làm cho quá trình tập trung tích tụ ruộng đất bắt đầu với những điền chủ lớn có điền trang, điền sản mênh mông.
Cộng cả 3 lực lượng với những biện pháp và phương thức năng động tích cực nói trên, công cuộc khai hoang phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ trong thời gian này đã đạt được những thành quả to lớn hơn 2 thế kỷ trước mà chủ yếu là mở rộng thêm đồng bằng miền Tây. Theo kết quả đo đạc của các đại thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Trương Minh Giảng vào năm 1836 để lập điền bộ chính thức đầu tiên của 6 tỉnh thuộc Gia Định thành ghi rõ trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai đã khai phá được của toàn Nam Bộ lúc bấy giờ là: "Nguyên trưng điền thổ 20.197 sở, 13 giây 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 60.075 mẫu và nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng". Về sau đến năm 1869, thực dân Pháp có công bố lại về con số này là 591.100 mẫu tức là 295.550 ha (trong Annuaire de la Cochinchine).
Con số cụ thể có thể thêm bớt ít nhiều, nhưng qua ba giai đoạn khai hoang trên 300 năm đã lần lượt hình thành 5 trung tâm phát triển nông nghiệp xung quanh những trung tâm đô thị sầm uất.

Image


- Khu vực dọc theo trục giao thông thủy bộ Mô Xoài - Bà Rịa - Trấn Biên (Biên Hòa - Đồng Nai) mà tâm điểm có thời là Cù Lao Phố, một thương cảng lớn nhất ở miền Nam lúc bấy giờ. Hệ thống địa điểm định cư phát triển nông nghiệp của vùng này là Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, Nhà Bè, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu...
- Khu vực vùng Bến Nghé - Sài Gòn (Phiên Trấn). Sài Gòn hay Sài Côn mà trước là Prei Noker, mà ngày nay là Chợ Lớn. Đây là một vùng canh tác nông nghiệp lúa nước rộng lớn, kéo dài, bao trùm cả ngoại vi Bến Nghé, Sài Gòn, Cần Đước đến Gò Công, Cửa Đại, Ba Lai. Lấy tên là vùng Bến Nghé - Sài Gòn vì Bến Nghé - Sài Gòn là tâm điểm của vùng này. Suốt 300 năm qua đây là một trung tâm thương mại, một thương cảng, một đô thị lớn nhất của Nam Bộ và miền Nam. Tâm điểm này nối liền với Cù Lao Phố. Nó nằm cạnh ranh trấn Gia Định, an ninh được bảo đảm hơn, thị trường mua bán rộng rãi hơn, nên nó phát triển rất nhanh, thay thế vị trí Cù Lao Phố suốt thế kỷ XVIII, XIX trở đi.
- Vùng Ba Giồng (bao gồm một phần 2 huyện Phước Long, Tân Bình và bao trùm cả vùng Vũng Cù tức Tân An và Vàm Cỏ ngày nay). Đây là vùng đất canh tác nông nghiệp rất tốt, năm 1679 chúa Hiền đã cho phép Dương Ngạn Địch đem 1.000 quân lính và gia nhân đến khai phá lập nghiệp ở đây. Đến năm 1741 vùng này đã phát triển sung túc, nhiều thóc gạo. Kho lúa Cam Lạch (một trong chín kho lớn toàn quốc) đã được thiết lập ở đây để thu tô thuế tải về kinh.
- Khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long ven sông Tiền, sông Hậu đến tận ven sông Vàm Cỏ gọi là vùng Mỹ Tho - Long Hồ (Vĩnh Long - Mỹ Tho - Cần Thơ - An Giang). Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến lược: bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên. Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này. Đó là văn minh lúa nước, văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.
- Khu vực Mang Khảm - Hà Tiên - Phú Quốc - Rạch Giá - Cà Mau còn gọi là vùng Hương Uúc, Trảng Ké, Cần Bột, Gi Khê... Vùng này do quân lính và gia nhân cánh Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ khai khẩn và phát triển thành một thương cảng phồn vinh rất sớm. Phần nông nghiệp chỉ là thứ yếu của một số thổ dân và người Việt di cư đến đây từ trước. Còn cánh quân người Hoa của Mạc Cửu chỉ lo buôn bán và mở sòng bạc.

Image


Nhìn chung lại, triều Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành trực tiếp của một số đại thần tài năng trung thực hết lòng vì dân vì nước như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất đáng nhấn mạnh là việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Ngay trong những sổ địa bạ lúc bấy giờ, các vua triều Nguyễn đã sớm xác định chủ quyền đất đai của nước ta tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc. Trường Sa đã được ghi rõ thuộc địa bộ Gia Định Thành.

_________________
Thôi về đi, đường trần đâu có gì... Có những ai xa đời quay về lại nơi cuối trời làm mây trôi?!



Top
Profile
svn
Post subject: Re: SÀI GÒN tản mạn ký
PostPosted: Mon 13 Apr, 2009 23:25:30
Offline
Advanced Member
User avatar

Joined: Fri 12 Dec, 2008 19:18:02
Posts: 152
Image

Thuyền tam bản trên sông Sài gòn ngày xưa (em dịch từ tiếng Pháp, hổng biết còn thuyền này có phải tam bản hông ^_^). Xưa lắc xưa lơ thì hiền hòa vầy nè, hôm bữa em đi tàu về Cần Thơ họp offline, tàu chạy ầm ầm rẽ nước, nhìn những thuyền máy nhỏ bị dạt ra hai bên vừa thấy mắc cười vừa thấy thương gì đâu. ^_^

Image

Đây là Long Xuyên

Image

Đây là là Dinh thống đốc Mỹ Tho

Image

Hình này chụp ở Sa Đéc

Image

Thủ Dầu Một

Image

Vĩnh Long


-----------------

Cho nên, đừng nghĩ Sài gòn, Sóc Trăng xa nhau lắm. Thật ra, mình cũng một nhà thôi hén, tiền bối Khicon? ^_^
Quay lại vai trò của người Hoa trong lịch sử Việt Nam nói chung và miền Nam, Sài gòn - Gia định nói riêng, còn rất nhiều điều để nói. Mà để bữa khác em post típ cho nghen, hôm nay em câu bài nhiu đó đủ rồi. Giờ dịch phim típ rồi đi ngủ. ^_^

_________________
Thôi về đi, đường trần đâu có gì... Có những ai xa đời quay về lại nơi cuối trời làm mây trôi?!



Top
Profile
tcqanh
Post subject: Re: SÀI GÒN tản mạn ký
PostPosted: Tue 14 Apr, 2009 08:51:15
Offline
Advanced Member
User avatar

Joined: Tue 11 Sep, 2007 19:36:11
Posts: 1291
Location: Q3 HCMC
svn wrote:
Nhìn chung lại, triều Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ...việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.

lịch sử phát triển miền Nam gắn liền với triều Chúa Nguyễn. cho nên Nhà nước ta đang xem lại vai trò lịch sử 9 chúa và 13 vua nhà Nguyễn này, đặc biệt là chúa Nguyễn. cách đây vài năm, nhà nước đã đặt tên 1 con đường gần nhà em, từ ga Sài GÒn ra ngã bảy Dân Chủ là đường Nguyễn Phúc Nguyên. ông là con của chúa Nguyễn Hoàng, người đặt nền tảng cho ý tưởng hòa hoãn với chúa Trịnh phía bắc và mở rộng phát triển phía nam....

vừa rồi 1 gia tộc sống trên đảo Lý Sơn đã tặng cho nhà nước tờ chỉ dụ của Vua Minh Mạng về việc phát triển, canh giữ đảo Hoàng Sa. cái này giúp củng cố thêm chủ quyền nước ta về quần đảo này.



Top
Profile
svn
Post subject: Re: SÀI GÒN tản mạn ký
PostPosted: Wed 15 Apr, 2009 17:17:51
Offline
Advanced Member
User avatar

Joined: Fri 12 Dec, 2008 19:18:02
Posts: 152
Sài gòn mấy hôm nay trời âm u mưa. Giữa trưa nắng chang chang tự nhiên mưa đổ sầm một tí rồi tan. Ngồi trong văn phòng trên tầng 7 bốn bề là kiếng, nhìn xung quanh thấy Sài gòn lửng lơ trong suốt một màn mưa.
Sài gòn mưa, các tiền bối BTA có hứng rủ nhau đi nhậu :mrgreen: em có hứng đi cafe 1 mình. Ngồi trong 1 quán cafe cóc núp núp mưa, xài ké wifi tòa nhà vp kế bên, thấy chiều Sài gòn mưa sũng nước vậy mà yên bình đến lạ. Chợt nhớ một sáng đẹp trời cafe ở Cần thơ... Cái quán cafe có nét gì đó giống y chang cái quán được viết trong bài này.

-------------------------
Image

- Bài LÊ ĐẠI ANH KIỆT - Ảnh TRẦN VIỆT ĐỨC, MAI KỲ -

Trong thế kỷ trước ở Nam Bộ, từ chợ làng tới đô thị, mỗi bờ sông bến phố đều có vài tiệm nước của người Hoa. Gọi là tiệm nước nhưng bán cả đồ ăn. Phía trước tiệm thường có hai quầy cháo Quảng, cháo lòng, hủ tiếu mì, hoành thánh. ... Mỗi quán thường chỉ bán một vài món ăn nhưng đều tạo ra hương vị, khẩu vị đặc trưng của mình. Bên trong là hai ba dãy bàn dành cho khách, phía trong cùng mới chính là quầy bán nước. Món nước uống chủ lực của các tiệm này là cà phê pha bằng vợt nấu trong cái siêu sành. Theo tiếng Quảng, cà phê đen gọi là “xây chừng”, cà phê sữa là “xây nại”, sữa pha chút cà phê là “pạc xỉu”. Tách cà phê thường bằng sành hoặc cốc thủy tinh có chỉ khuyết ở chính giữa, lâu dần người Nam bộ gọi luôn loại cốc thủy tinh đó là ly xây chừng. Theo câu thiệu “đen như hắc ín, nóng như tàu hỏa”, cái gu cà phê phải thật đậm, thật nóng nên dù là ly hay tách đều được hấp trên nồi hơi nước nghi ngút trước khi rót cà phê cho khách. Ly tách cà phê được đặt trên cái dĩa trẹt, nhiều người “sành điệu” không uống trong tách mà rót cà phê đang bốc khói ra dĩa để nhâm nhi.

Buổi sáng, người “phổ ky” (nhân viên phục vụ) luôn bày sẵn trên bàn hai cái bánh bao, khách có dùng thì tính tiền không dùng thì thôi. Buổi trưa, khách hàng thuộc giới lao động thường tới tiệm ăn miếng cốm ngò, bánh lột da (bánh pía) và uống nước trà (nhẩm xà) miễn phí. Bất kể người giàu, kẻ nghèo, người Hoa, người Việt, Khmer, ai cũng có cái thú sáng sáng ra ngồi tiệm nước. Nếu mỗi ngày tới tiệm nước vào cùng giờ khắc, khách sẽ gặp lại đúng y những gương mặt đó, ngồi đúng ở những vị trí quen thuộc đó. Người “phổ ky” không cần hỏi chỉ thấy mặt khách là gọi hàng ngay bằng thứ tiếng Quảng nói lóng “zì hoành thánh mì thoàn dách, lượng co sủi cảo tún lục” (hai hoành thánh mì bàn giữa số một, bánh sủi cảo bàn số sáu phía Đông). Phong cách dân giã, thân mật của tiệm nước gắn liền với đời sống người dân đến mức trở thành một nếp sinh hoạt thân thiết không thể thiếu. Nói theo Nguyễn Văn Trấn trong “Chợ đệm quê tôi” thì tiệm nước chính là trung tâm văn hóa, trung tâm thông tin của một vùng. Nói theo Bình Nguyên Lộc trong “Hồn ma cũ”, nhiều người tới tiệm nước không chỉ để thưởng thức cà phê, bánh bao, hủ tiếu mà còn tắm mình trong không gian, không khí quen thuộc ấm áp. Suy ra ở góc nào đó, tiệm nước là sự giao thoa văn hóa trên vùng đất mới. Từ nguyên liệu cà phê của người Âu Mỹ được chế biến theo phong cách người Hoa và được cả cộng đồng Hoa, Việt tiếp nhận để thành một nếp sinh hoạt, một loại sản phẩm quen thuộc.

Do nhiều yếu tố tác động, sau 1975 các tiệm nước dần dần vắng bóng ở Nam bộ. Những quán cà phê hiện nay thường thuần túy chỉ bán cà phê. Gần đây, một số quán cà phê ở Sài Gòn kết hợp bán cơm văn phòng với phong cách sang trọng khác hẳn với tiệm nước ngày xưa.

Tình cờ trong chuyến đi Malaysia, khắp các đường phố từ Kualalumpur đến Malacca tôi gặp lại hình ảnh những tiệm nước ngày xưa qua cái tên quán cà phê. Cũng là những căn nhà phố hình ống, trước hàng ăn sau hàng uống. Cũng là những món hủ tíu, mì với tên gọi theo âm Malaysia là “Laksa”. Nhưng ở đây, sự hội nhập đa văn hóa của tiệm nước thể hiện rất rõ qua cách chế biến món ăn và thực phẩm kèm theo. Ở Việt Nam hay ở ngay tại chính quốc Quảng Đông, hủ tiếu, mì chủ yếu được nấu với thịt heo, nước “lèo” là nước trong nấu từ xương heo. Ở Malaysia, do ảnh hưởng yếu tố đa tôn giáo (người hồi giáo không ăn thịt heo, người Bà La môn không ăn bò), đa sắc tộc... Nước “lèo” ăn với Laksa thường được nấu sền sệt như càry hay các loại nước xốt của người Ấn và ăn với thịt gà hoặc hải sản. Cũng giống như người Hoa lập nghiệp lâu đời ở Việt Nam được gọi là người Minh Hương, cộng đồng người Hoa lâu đời ở Malaysia, Indonesia được gọi là Nyonya Baba hay là Peranakan. Đây chính là những đặc sản của người Nyonya Baba, một loại đặc sản biểu trưng cho sự giao lưu văn hóa.

Chúng tôi đến quán cà phê 88 phố Jonker ở Malcacca, (khu phố cổ được công nhận là di sản thế giới, quán này là một bảo tàng cà phê, đơn vị thành viên của bảo tàng Lịch sử dân tộc Malacca) có đến 8 món đặc sản Nyonya Baba là: “Nyonya Asam Laksa” mì gạo nấu với càry gà, chả cá; “Baba Laksa” mì gạo nấu với nước sốt cay; “Baba Sea Food Laksa” mì nấu thủy sản; “Baba Chicken Laksa” mì nấu với gà;... Với người Việt, tất cả các món này vừa quen thuộc vừa có hương vị rất riêng. Với cộng đồng đa sắc tộc, đa tôn giáo ở đây những món đặc sản Nyonya Baba là “sân chơi chung” mà ai cũng có thể tiếp nhận. Đặc biệt là cà phê trong các quán này vẫn giữ nguyên phong cách truyền thống, lượt bằng vợt trong siêu nước bằng sành và rót ra tách sành đặt trên đĩa trẹt, từ ly đến tách đều bốc khói. Trong quán cà phê đó, người châu Âu, người Malaysia bản địa, người Hoa, người Ấn,... đều quay quần hòa hợp như hình ảnh, phong cách của một xã hội Mã Lai thu nhỏ: Đa sắc tộc nhưng hòa hợp, yên bình. Ẩm thực, là sản phẩm của sự giao thoa văn hóa và chính nó là dung môi kết nối văn hóa sống, thu ngắn dị biệt khoảng cách của những dân tộc, cộng đồng dân cư.
------------
Tính post hình xếp Dũng chụp cái quán cafe dưới Cần Thơ, mà... Công nhận, các tiền bối vnav k có khiếu chụp hình phóng sự hay sao áh ta. ^_^

_________________
Thôi về đi, đường trần đâu có gì... Có những ai xa đời quay về lại nơi cuối trời làm mây trôi?!

source

http://www.vnav.vn/forum/viewtopic.php?f=25&t=14140&start=225

Tags: | Edit Tags
Monday April 20, 2009 - 04:31am (EDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Cross reference of street names
Cross reference of street names magnify
To the left of this street is the Ben Nghe Canal. The bridge and the one off the left side of the postcard go to Khanh Hoi.
source
http://www.henrybechtold.freewebspace.com/Postcards/Postcards.html
Tags: | Edit Tags
Saturday April 18, 2009 - 11:49am (EDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
The Municipal theater
The Municipal theater magnify
The Municipal theater, known as the Opera house in the 1960's, at the end of Le Loi. Plays are preformed here, we looked in on my last trip.
source
http://www.henrybechtold.freewebspace.com/Postcards/Postcards.html
Tags: | Edit Tags
Saturday April 18, 2009 - 11:45am (EDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Saigon Railroad Station when it was next to Ben Thanh Market.
Saigon Railroad Station when it was next to Ben Thanh Market. magnify
Saigon Railroad Station when it was next to Ben Thanh Market.
source
http://www.henrybechtold.freewebspace.com/Postcards/Postcards.html
Tags: | Edit Tags
Saturday April 18, 2009 - 11:41am (EDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét