Cập nhật lúc 7:11:58 PM - 04/02/2011
Bài và ảnh: Trần Công NhungTam quan đền Bà Triệu.
Rời Lam Kinh tôi chạy xe thẳng về Thanh Hóa theo QL 217; lúc còn cách Thanh Hóa chừng mươi cây số, thấy bên trái QL1A một ngôi đền lớn, cổng tam quan đồ sộ, tường vách màu khói nhang, tôi chậm xe rẽ vào, không ngờ đây là đền thờ Bà Triệu.
Trời đã chiều, tôi mau chân lên Đền quan sát và chụp ít ảnh. Đền Hai bà Trưng, đền Thánh Trần thì nhiều,mà đền bà Triệu tôi mới gặp lần đầu. Đền nằm bên sườn một ngọn núi, phải hai chục tam cấp mới lên tới sân đền.
Lịch sử Bà Triệu, con dân Việt Nam ai cũng biết từ khi cắp sách đến trường. Bà tên thật là Triệu Thị Trinh, nhưng nhân dân quen gọi là Bà Triệu. Bà đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Ngô thế kỷ thứ 3. Bà Triệu người vùng núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Bà nổi tiếng là một thiếu nữ có nhan sắc, có sức khỏe và giàu mưu trí. Không cam tâm chịu sống đời nô lệ, năm 19 tuổi, bà đã qui tụ nghĩa sĩ trong vùng luyện tập võ nghệ, chuẩn bị đánh giặc cứu nước. Khi nghe người thân khuyên bà nên lấy chồng để có cuộc sống bình thường như mọi người, bà đã khẳng khái đáp: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người”.
Hồ sen với 4 trụ biểu.
Năm 247, bà cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực trong vùng, dựng cờ khởi nghĩa. Dân chúng khắp nơi nô nức hưởng ứng. Bà mặc áo giáp, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi ra trận đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô hoảng sợ sai tướng Lục Dận mang binh mã sang phục thù. Sau nhiều trận ác chiến, nghĩa quân phải lui về miền núi Thanh Hóa để bảo toàn lực lượng. Trong trận đánh bên ngọn núi Tùng, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh. Lăng mộ bà được đặt bên chân núi, thôn Phú Điền xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Có truyền thuyết: Sau khi bà qua đời, con voi một ngà thường đưa bà ra trận, nhớ thương chủ cũ cứ nằm phục bên mộ và hóa thành ngọn núi Gai, còn có tên là Tượng Sơn, nơi có đền thờ Bà Triệu hiện nay.
Ban đầu, ngôi đền chỉ là một nếp nhà tranh đơn sơ. Đến thế kỷ VI, vua Lý Nam Đế đi đánh giặc qua đây thì trời tối, ông cho quân lính nghỉ tạm bên Đền. Nửa đêm ông thấy có ánh hào quang vụt qua. Lấy làm lạ, Lý Nam Đế cho gọi dân làng đến hỏi. Khi biết đây là đền thờ Bà Triệu, nhà vua liền làm lễ cầu thắng trận. Sau khi dẹp xong giặc, ông cho xây dựng lại ngôi đền với quy mô lớn hơn. Đến đời nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII), đền Bà Triệu được trùng tu như hiện nay.
Tổng quát đền Bà Triệu.
So với đền Mê Linh thờ hai Bà Trưng (1), đền Bà Triệu có hẹp về khuôn viên, nhưng vóc dáng bề thế uy nghiêm hơn. Từ ngoài Quốc lộ nhìn vào, cổng tam quan hai tầng mái, sừng sững trên cao. Lối kiến trúc đơn giản, mạnh mẽ mà vẫn giữ được nét cổ kính của đền miếu. Thoạt nhìn du khách đã có ngay ý nghĩ trân trọng tôn nghiêm. Chung quanh Đền không có cảnh buôn bán lôi thôi như nhiều nơi khác. Trước mặt Đền là hồ sen, bốn bề kè đá, có 4 trụ biểu đá xanh khắc hoa văn đẹp, một bình phong cũng đá xanh, chắn giữa trụ biểu và hồ sen xanh lá không thấy hoa. Đã mùa hè mà sen chưa nở. Cây đa to nhưng không cao, nhánh nhiều và xòa ra phủ bóng râm từ trong sân ra giữa hồ... Qua một sân lát đá xanh, lên gần hai chục tam cấp mới đến cửa Tam Quan. Sân Đền lát gạch Bát Tràng, chính giữa có một lối đi lát đá xanh rộng chừng 2m, thẳng vào tiền đường có hai voi đá chầu hai bên. Tiền đường gồm 5 gian, cột đá (2) mài vuông cạnh, khắc câu đối bằng chữ Hán. Sau tiền đường là khoảng sân nhỏ còn gọi là thiên tỉnh (giếng trời để đón ánh sáng), hai bên là tả hữu vu, nhà tiếp khách và sửa soạn lễ. Tiếp đến là chánh điện, lên chánh điện bằng hệ thống tam cấp, có bốn hàng rồng đá ngăn thành ba lối, tương tự như rồng đá điện Lam Kinh, nhưng đơn giản hơn. Kiến trúc chánh điện khá cầu kỳ, mái hai tầng rất bề thế. Nóc mái không đắp lưỡng long tranh châu, nhưng đuôi mái trang trí kiểu long đao cong vút, giống mái chùa Tây Phương Hà Tây (3). Tất cả các cột đều bằng gỗ quí, có chạm trổ. Việc thờ phượng cũng lọng che phướn rủ, cờ đuôi nheo… màu đỏ thắm. Bàn thờ chỉ có bài vị và bộ tam sự đơn giản. Đặc biệt có một trống đồng trước bàn thờ. Sau cùng là hậu cung ba gian, cũng hai tầng mái dạng như chánh điện tuy nhỏ hơn. Hậu cung dựa vào vách núi. Theo thế đất các tòa kiến trúc cao cao dần, cách nhau cả chục bậc tam cấp. Đối diện với Đền, phía bên kia quốc lộ 1A là núi Tùng - nơi có lăng Bà Triệu.
Không một khách viếng Đền, cũng không thấy ai trông coi, tôi cặm cụi lo chụp ảnh mãi mới thấy có một bà già đi vào. Tôi hỏi thăm:
- Bác là người trông Đền?
- Không tui bán nước phía trước.
- Đền ít ai tới thăm bác hả?
- Có chi mô mà thăm, tới ngày lễ hội mới đông người.
Bàn thờ trong hậu cung.
Ngày hội Bà Triệu là ngày 22 tháng 2 âm lịch. Thăm đền thờ Bà Triệu (4) để thấy con cháu không bao giờ quên công trạng vì dân vì nước của cha ông, dù thời gian có qua bao lâu chăng nữa. Lịch sử nước nhà cũng có những nhân vật đã không cứu nước mà còn hại dân, như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc… thì đời đời còn bị nguyền rủa. Đó cũng là lẽ công bằng như “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” vậy.
Trời đã hết nắng, tôi vội chạy về Thanh Hóa. Vào đầu thành phố thấy có khách sạn Thanh Thủy bên đường, tôi vào lấy phòng ngay. Trông qua, biết đây chỉ là nhà trọ, tiếp tân giao cho một bé gái 10 tuổi thì không thể là khách sạn được. Trời tối, lạ đường, biết đâu tìm, tôi nhận đại một phòng. Điều không may, khách sạn nằm giữa hai trục lộ giao thông: Đường sắt và QL1A, chốc chốc, tàu qua xe lại, suốt đêm không sao chợp mắt.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, trả phòng đi vào Nghệ An. Nơi đây có nhiều di tích cần tìm: Căn nhà tranh cụ Phan Bội Châu, lăng mộ Mai Hắc Đế, Đền Hồng Sơn, đình Hoành Sơn, đền thờ Nguyễn Biểu, lăng mộ Phan Đình Phùng…
Trần Công Nhung
06 - 2008
(1). Đền Mê Linh đã đăng.
(2). Thanh Hóa là nơi có nhiều núi đá xanh, nên nhiều công trình được làm bằng đá (thành nhà Hồ, điện Lam Kinh, Nhà thồ đá ở Ninh Bình cũng lấy đá từ Thanh Hóa).
Đền bà Triệu được xây dựng trên ngọn núi Gai, cạnh quốc lộ 1, thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc,
(3). Chùa Tây Phương trang 167 QHQOK 5.
(4). Trong Quốc Sử Diễn Ca, nhà thơ Lê Ngô Cát (thời Nguyễn) có viết:
Vú dài ba thước dắt lưng,
Cưỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra.
Cũng toan gánh vác sơn hà,
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.
Vua Tự Đức đọc khen hay, nhưng sửa hai chữ “cũng toan” thành “ghé vai”, và nói đùa, “Thế đàn ông nước Nam đâu cả”. (Chín chúa mười ba vua của TT Bình trang 101).
source
Vien Dong Daily
Trời đã chiều, tôi mau chân lên Đền quan sát và chụp ít ảnh. Đền Hai bà Trưng, đền Thánh Trần thì nhiều,mà đền bà Triệu tôi mới gặp lần đầu. Đền nằm bên sườn một ngọn núi, phải hai chục tam cấp mới lên tới sân đền.
Lịch sử Bà Triệu, con dân Việt Nam ai cũng biết từ khi cắp sách đến trường. Bà tên thật là Triệu Thị Trinh, nhưng nhân dân quen gọi là Bà Triệu. Bà đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Ngô thế kỷ thứ 3. Bà Triệu người vùng núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Bà nổi tiếng là một thiếu nữ có nhan sắc, có sức khỏe và giàu mưu trí. Không cam tâm chịu sống đời nô lệ, năm 19 tuổi, bà đã qui tụ nghĩa sĩ trong vùng luyện tập võ nghệ, chuẩn bị đánh giặc cứu nước. Khi nghe người thân khuyên bà nên lấy chồng để có cuộc sống bình thường như mọi người, bà đã khẳng khái đáp: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người”.
Hồ sen với 4 trụ biểu.
Năm 247, bà cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực trong vùng, dựng cờ khởi nghĩa. Dân chúng khắp nơi nô nức hưởng ứng. Bà mặc áo giáp, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi ra trận đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô hoảng sợ sai tướng Lục Dận mang binh mã sang phục thù. Sau nhiều trận ác chiến, nghĩa quân phải lui về miền núi Thanh Hóa để bảo toàn lực lượng. Trong trận đánh bên ngọn núi Tùng, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh. Lăng mộ bà được đặt bên chân núi, thôn Phú Điền xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Có truyền thuyết: Sau khi bà qua đời, con voi một ngà thường đưa bà ra trận, nhớ thương chủ cũ cứ nằm phục bên mộ và hóa thành ngọn núi Gai, còn có tên là Tượng Sơn, nơi có đền thờ Bà Triệu hiện nay.
Ban đầu, ngôi đền chỉ là một nếp nhà tranh đơn sơ. Đến thế kỷ VI, vua Lý Nam Đế đi đánh giặc qua đây thì trời tối, ông cho quân lính nghỉ tạm bên Đền. Nửa đêm ông thấy có ánh hào quang vụt qua. Lấy làm lạ, Lý Nam Đế cho gọi dân làng đến hỏi. Khi biết đây là đền thờ Bà Triệu, nhà vua liền làm lễ cầu thắng trận. Sau khi dẹp xong giặc, ông cho xây dựng lại ngôi đền với quy mô lớn hơn. Đến đời nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII), đền Bà Triệu được trùng tu như hiện nay.
Tổng quát đền Bà Triệu.
So với đền Mê Linh thờ hai Bà Trưng (1), đền Bà Triệu có hẹp về khuôn viên, nhưng vóc dáng bề thế uy nghiêm hơn. Từ ngoài Quốc lộ nhìn vào, cổng tam quan hai tầng mái, sừng sững trên cao. Lối kiến trúc đơn giản, mạnh mẽ mà vẫn giữ được nét cổ kính của đền miếu. Thoạt nhìn du khách đã có ngay ý nghĩ trân trọng tôn nghiêm. Chung quanh Đền không có cảnh buôn bán lôi thôi như nhiều nơi khác. Trước mặt Đền là hồ sen, bốn bề kè đá, có 4 trụ biểu đá xanh khắc hoa văn đẹp, một bình phong cũng đá xanh, chắn giữa trụ biểu và hồ sen xanh lá không thấy hoa. Đã mùa hè mà sen chưa nở. Cây đa to nhưng không cao, nhánh nhiều và xòa ra phủ bóng râm từ trong sân ra giữa hồ... Qua một sân lát đá xanh, lên gần hai chục tam cấp mới đến cửa Tam Quan. Sân Đền lát gạch Bát Tràng, chính giữa có một lối đi lát đá xanh rộng chừng 2m, thẳng vào tiền đường có hai voi đá chầu hai bên. Tiền đường gồm 5 gian, cột đá (2) mài vuông cạnh, khắc câu đối bằng chữ Hán. Sau tiền đường là khoảng sân nhỏ còn gọi là thiên tỉnh (giếng trời để đón ánh sáng), hai bên là tả hữu vu, nhà tiếp khách và sửa soạn lễ. Tiếp đến là chánh điện, lên chánh điện bằng hệ thống tam cấp, có bốn hàng rồng đá ngăn thành ba lối, tương tự như rồng đá điện Lam Kinh, nhưng đơn giản hơn. Kiến trúc chánh điện khá cầu kỳ, mái hai tầng rất bề thế. Nóc mái không đắp lưỡng long tranh châu, nhưng đuôi mái trang trí kiểu long đao cong vút, giống mái chùa Tây Phương Hà Tây (3). Tất cả các cột đều bằng gỗ quí, có chạm trổ. Việc thờ phượng cũng lọng che phướn rủ, cờ đuôi nheo… màu đỏ thắm. Bàn thờ chỉ có bài vị và bộ tam sự đơn giản. Đặc biệt có một trống đồng trước bàn thờ. Sau cùng là hậu cung ba gian, cũng hai tầng mái dạng như chánh điện tuy nhỏ hơn. Hậu cung dựa vào vách núi. Theo thế đất các tòa kiến trúc cao cao dần, cách nhau cả chục bậc tam cấp. Đối diện với Đền, phía bên kia quốc lộ 1A là núi Tùng - nơi có lăng Bà Triệu.
Không một khách viếng Đền, cũng không thấy ai trông coi, tôi cặm cụi lo chụp ảnh mãi mới thấy có một bà già đi vào. Tôi hỏi thăm:
- Bác là người trông Đền?
- Không tui bán nước phía trước.
- Đền ít ai tới thăm bác hả?
- Có chi mô mà thăm, tới ngày lễ hội mới đông người.
Bàn thờ trong hậu cung.
Ngày hội Bà Triệu là ngày 22 tháng 2 âm lịch. Thăm đền thờ Bà Triệu (4) để thấy con cháu không bao giờ quên công trạng vì dân vì nước của cha ông, dù thời gian có qua bao lâu chăng nữa. Lịch sử nước nhà cũng có những nhân vật đã không cứu nước mà còn hại dân, như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc… thì đời đời còn bị nguyền rủa. Đó cũng là lẽ công bằng như “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” vậy.
Trời đã hết nắng, tôi vội chạy về Thanh Hóa. Vào đầu thành phố thấy có khách sạn Thanh Thủy bên đường, tôi vào lấy phòng ngay. Trông qua, biết đây chỉ là nhà trọ, tiếp tân giao cho một bé gái 10 tuổi thì không thể là khách sạn được. Trời tối, lạ đường, biết đâu tìm, tôi nhận đại một phòng. Điều không may, khách sạn nằm giữa hai trục lộ giao thông: Đường sắt và QL1A, chốc chốc, tàu qua xe lại, suốt đêm không sao chợp mắt.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, trả phòng đi vào Nghệ An. Nơi đây có nhiều di tích cần tìm: Căn nhà tranh cụ Phan Bội Châu, lăng mộ Mai Hắc Đế, Đền Hồng Sơn, đình Hoành Sơn, đền thờ Nguyễn Biểu, lăng mộ Phan Đình Phùng…
Trần Công Nhung
06 - 2008
(1). Đền Mê Linh đã đăng.
(2). Thanh Hóa là nơi có nhiều núi đá xanh, nên nhiều công trình được làm bằng đá (thành nhà Hồ, điện Lam Kinh, Nhà thồ đá ở Ninh Bình cũng lấy đá từ Thanh Hóa).
Đền bà Triệu được xây dựng trên ngọn núi Gai, cạnh quốc lộ 1, thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc,
(3). Chùa Tây Phương trang 167 QHQOK 5.
(4). Trong Quốc Sử Diễn Ca, nhà thơ Lê Ngô Cát (thời Nguyễn) có viết:
Vú dài ba thước dắt lưng,
Cưỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra.
Cũng toan gánh vác sơn hà,
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.
Vua Tự Đức đọc khen hay, nhưng sửa hai chữ “cũng toan” thành “ghé vai”, và nói đùa, “Thế đàn ông nước Nam đâu cả”. (Chín chúa mười ba vua của TT Bình trang 101).
source
Vien Dong Daily
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét