Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

Saigon - Chợ Lớn: thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 - Phần III


Saigon - Chợ Lớn: thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 - Phần III

by Nguyễn Đức Hiệp — Cập nhật : 08/10/2010 00:25

Phần cuối của loạt ba bài. Xin lưu ý bạn đọc, một số bản đồ trong biên khảo này có giá trị tư liệu nhưng vì quá lớn với màn ảnh nên đã được chúng tôi thu nhỏ trong thân bài. Để xem rõ hơn bạn đọc có thể mở những tài liệu đính kèm tại cuối bài, bằng chương trình xem ảnh quen thuộc của mình.



Saigon - Chợ Lớn:
thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 - Phần III



Nguyễn Đức Hiệp



6. Saigon mô tả chi tiết qua Trương Vĩnh Ký


Những chi tiết sau đây đa số là trích từ sách “Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs” của Petrus Trương Vĩnh Ký (3).

Trước khi có thành, ở đất Gia Định chỉ có đồn Dinh, lũy Hoa Phong, sau có lũy Bán bích. Thành này được gọi là thành Quy, xây theo kiểu thành Vauban của Pháp. Tường thành cao 5m20. Trung tâm thành là cột cờ và hành cung, ở vị trí gần nơi ngày nay là nhà thờ đức bà.

Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc.Trong thành đặt nhà Thái miếu và kho về bên tả, bên hữu là xưởng trại, ở giữa là hành cung. Trại lính thì bố liệt chung quanh (4).

Ở phía đông là hai cửa tiền (đông môn), một gọi là Gia định môn nhìn ra công trường và rạch chợ Saigon, cửa kia gọi là Phan Yên môn ngay cạnh các đại pháo, nằm trên đường chạy dọc xuống theo kênh Kinh Cây Cám. Rạch chợ Saigon (rạch chợ Vải) sau này thời Pháp có hai con đường chạy dọc theo rạch gọi là đường Rigault de Genouilly (chạy xuống sông) và đường Charner (chạy từ sông lên). Khi rạch chợ Vải được lấp đi thì thành một đường lớn gọi là đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Người dân gọi là đường Kinh Lấp.

Hai cửa hậu ở phía Tây (tây môn) gọi là Vọng Khuyết môn và Cọng thìn môn hướng về cầu thứ hai (cầu Bông) và thứ ba (cầu xóm Kiệu) trên rạch Avalanche (Thị Nghè).


hinh-5

Hình 5. Vị trí thành Saigon (Gia định thành)


Ở cửa trái về hướng bắc (bắc môn) là hai cửa Hoài Lai môn và Phục viễn môn, hướng về cầu trên rạch Thị Nghè (gọi là cầu thứ nhất). Cửa phải của thành (nam môn) có hai cửa Định biên môn và Tuyên hóa môn, ở phía đường sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai (Định Biên môn) và góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Trãi (Tuyên Hóa môn). Hai cửa này dần ra hai đường, một là đường chiến lược (rue strategique, đường đi Phú Thọ, Phú Lâm hay đường 3/2 ngày nay, và một nữa là đường cao đi Chợ Lớn (route haute, sau là gồm đường Frère Louis nay là đường Nguyễn Trãi chạy tới đường Nancy, hay Cộng Hòa trước 1975 nay là Nguyễn Văn Cừ và cuối cùng vào Chợ Lớn cũng theo con đường Nguyễn Trãi nối dài ngày nay). Xưa đi Chợ Lớn còn có một đường nữa từ trung tâm Saigon dọc theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ qua vùng cầu Ông lãnh và dưới Chợ quán ngày nay, gọi là “route basse” hay đường dưới, đường Trần Hưng Đạo sau này vào thế kỷ 20 mới có.


hinh-6

Hình 6: Đường Saigon-Chợ Lớn (route haute, đường trên), từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Văn Cừ (Thuận Kiều xưa) vào Chợ Lớn


Thành này nằm gọn trong khu vực các đường Lê Thánh Tôn (rue d’Espagne), Nguyễn Đình Chiểu (Rue Richaud hay Phan Đình Phùng trước 1975), Đinh Tiên Hoàng-Tôn Đức Thắng (Boulevard de la Citadelle (1865), Boulevard Luro (1901), hay Cường Để trước 1975), Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Rue Mac Mahon hay Công Lý trước 1975) như trong hình 5. Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc. Hào thành sâu 14 xích; bề ngang 10 trượng 5 xích; chu vi 794 trượng. Có xây điếu kiều, ngoài kiều có đắp thạch trại (4).

Thành Saigon được Nguyễn Ánh ở trong 12 năm làm cơ dinh đánh Tây Sơn, năm 1802, sau khi lên ngôi ở Huế, Gia Long trao lại cho Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành (1812-1815 và 1820-1832). Lê Văn Duyệt ở cung Hoàng cung, vị trí của cung này là đường Norodom (nay là Lê Duẩn), phía ngoài thành Gia Định (3). Vòng ngoài thành, vua Gia Long cũng có xây một ngôi nhà cho giám mục Pigneau de Béhaine (gọi là Evêque d'Adran tức Bá Đa Lộc hay cha Cả) trên đường sau này gọi là rue Richaud (đường Nguyễn Đình Chiểu ngày nay) để trả ơn cho sự giúp đỡ của ông này trong lúc còn chiến tranh với Tây Sơn. Ngày nay vị trí tòa nhà này là Tòa Tổng Giám mục (5). Nhà của ông giám mục Bá Đa Lộc trước đó ở cạnh thành Saigon, vị trí ngày nay là trong khuôn viên sở thú gần viện bảo tàng. Khi chiếm lại thành Saigon, ngôi nhà này đã bị Minh Mạng phá hủy sau khi dẹp loạn Lê Văn Khôi.

Hàng năm, sau Tết, Lê Văn Duyệt (gọi là Ông lớn thượng) tổ chức diễn tập lính từ 6 tỉnh Nam kỳ ở cánh đồng mả (plain de tombeaux), "đồn tập trận" ở phia đất giữa Saigon và hướng trường đua, Phú Lâm (chú thích: sau này gọi là cánh đồng mả vì có nhiều mộ chôn, kể cả mả của những người bị chết trận hay bị vua Minh Mạng hành hình sau cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi, chôn ở “mả ngụy” gần khu ngã 6 đường 3/2 và cách mạng tháng 8, tức khu Vườn Chuối ngày nay)

Vào đêm trước ngày 16 tháng một năm mới, vị tổng trấn cùng đoàn tùy tùng đến bái (homage) vua trong đền thờ của ông, sau đó sau ba phát súng cà nông, ông lên kiệu giữa hàng đầu lính mở đường và hàng lính hộ tống phía sau ra khỏi thành, ngang qua cửa Gia Định môn, và cửa Phan yên môn, đi đến cạnh Chợ Vải (gần cửa rạch kế chợ Cũ), sau đó đi lên đường sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để lên các gò cao gọi là mô súng. Ở đó, là nơi các khẩu đại bác được bắn và trình diễn quân sự được tiến hành với các voi.

Tổng trấn sau đó đi vòng sau thành và đến xưởng tàu thủy quân xem tập trận rồi trở về thành. Trong khi diễn hành, dân chúng trong nhà đánh âm thanh lớn, đốt pháo để đuổi đi ma quỷ có thể ám nhà họ.

Vào dịp tết thứ hai (tức vào tháng năm, tổng trấn trở về nơi tịch điền (nơi nhà vua hay đại diện vua, làm gương cho dân bằng sự làm việc lao động chính mình). Nơi làm nghi lễ này rất gần mặt nhà thương của các sơ Sainte-Enfance, ở Thị Nghè.

Từ tường của thành Saigon xuống đến bến sông Saigon tức là từ đường Espagne (Lê Thánh Tôn) xuống bến Bạch Đằng là một phần chính của thành phố thương mại xưa của người Việt gồm một số nhà, cửa tiệm xen kẽ với các đường hẻm ít được bảo trì nằm trong địa phận của bốn làng từ cửa rạch Thị nghè (arroyo de l'Avalanche) đến rạch Bến Nghé (arroyo chinois): làng Hòa Mĩ (nơi xưởng Ba son), làng Tân Khai, Long Điền và Trường Hòa, mà giới hạn là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa).

Làng Mĩ Hội bao gồm thành Saigon trở lên trên. Thời kỳ này thì lý trưởng của làng này là một trong những lý trưởng quan trọng nhất của thành phố, ông ta có quyền đội nón hình trái bí và có quyền hành chính như huyện trưởng (canton). Làng có xây một đình, một chùa hay một nhà họp và nhà vua có gởi người mang ấn chiếu trên một khâm vàng, năm dây vải thắt (ligatures) và các tặng phẩm để khai trương các tòa nhà này. Khu này gọi là Hàng đinh nằm ở phía trên đường Catinat, từ cạnh khách sạn Laval cho đến chỗ ở của giám đốc nội vụ. Ở tòa đô chính Saigon, có một kênh băng qua ống cống trên cầu gọi là “Cống cầu dầu”.

Dọc theo bờ sông Saigon phủ đầy các nhà sàn dựng trên cột sông. Ở cuối đường Catinat nơi bến phà Thủ Thiêm có một nhà "Thủy các" (kiosk hoàng gia), nhà tắm "lương tạ" cho vua được xây trên những bè nổi làm bằng tre.

Người ta gọi chỗ này là Bến ngự (Kompong Luong theo tiếng Khmer), tức bến của vua. Từ cửa rạch Thị nghè đến đường thành Saigon là các xưởng đóng tàu và các thuyền hải quân. Từ bờ chạy ra sông có một bến gọi là "Cầu gọ" hay "Cầu quan".

Trước khi đến pháo đài trước thành Saigon là một rạch nhỏ gọi là Kinh Cây Cám, kinh này lên đến tận đường Lê Thánh Tôn (rue d'Espagne), băng qua pháo đài đến thành. Kênh chợ Saigon là Kinh chợ vải, chạy lên đến tận giếng nước cùng tên, đối diện với nhà của ông Brun, người làm và bán yên ngựa.

Giữa nhà của ông Vương Thái (Wang Tai) góc kênh Chợ Vải và sông Saigon trên đường Rigault de Genouilly và hướng về cảng thuơng mại Saigon có một rạch nhỏ nữa, gọi là Rạch cầu sấu chạy lên đến tận đầu phía trên của kinh Chợ Vải. Nối Rạch cầu sấu và kinh Chợ Vải là kinh Coffine mà đại tá Coffine đã cho đào để nối hai đầu kinh. Nhà ông Vương Thái, năm 1868 được hội đồng thành phố mướn làm trụ sở tạm thời, nhà ở vị trí đằng sau sở thương chánh (Douanes ) nằm giữa đại lộ Nguyễn Huệ (Charner) và Hàm Nghi (Boulevard de la Somme). Ngôi nhà này còn được dùng làm phòng thương mãi và chứng khoán. Năm 1880, thị trưởng Blancsubé đặt vấn đề xây cất một tòa thị chánh cho Saigon.

Kinh Coffine sau này được lấp và trở thành đường Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) và rạch cầu sấu (tên gọi vì nơi đây trước có trại nuôi cá sấu) khi được lấp trở thành đường Boulevard de la Somme (nay là đường Hàm Nghi).

Từ nhà của ông Vương Thái về hướng cảng thương mại Saigon, dọc theo rạch Bến Nghé (arroyo chinois) là các xưởng làm gạch và ngói của ông Vương Thái. Trong các ngói đỏ hơn trăm năm trên nóc nhà thờ đức bà ở Saigon là một số ngói làm từ các xưởng gạch này của ông, số còn lại là nhập từ Pháp. Gần đây năm 2009 chi tiết này được biết khi một số ngói bị hư tháo xuống ở nhà thờ thì thấy có chữ đề xuất xứ “Wang-Tai Saigon” trên mặt các ngói. Các xưởng làm gạch của ông Vương Thái sản xuất gạch tốt được dùng ở Saigon và ở nhiều nơi trong Nam kỳ. Trong cuộc triển lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, các sản phẩm gạch của ông được huy chương bạc (16).

Ở phía cảng thương mại Saigon là nơi có xây một đồn và nơi cư ngụ của các chức sắc từ Huế vào, và cũng là nơi xưa kia Duệ tông, Mục Vương và Gia Long đến lánh nạn. Đối diện với Saigon bên kia bờ sông thời Gia Long là Xóm tàu ô (xóm thuyền đen). Đây là nơi trú ở của các hải tặc người Hoa mà tàu họ sơn đen. Vì họ chịu thần phục vua Gia Long, nên nhà vua cho họ đến cư trú và cho làm Tuần hải đô dinh và đặt họ dưới quyền của tướng họ là "Tướng quân Xiền". Họ có nhiệm vụ tuần tra bờ biển và những người ở lại trên bờ được dùng để bảo trì, làm kín vỏ tàu của hạm đội nhà vua.


hinh-7

Hình 7: Khu vực phía tây thành phố Saigon 1772


Năm 1822, khi lệnh cấm đạo thiên chúa nói riêng và người Âu nói chung, cùng lúc là lệnh phá hủy nhà thờ được vua Minh Mạng ban hành. Ngài phó vua (tổng trấn Lê Văn Duyệt) đang xem đá gà, thì lệnh được đưa đến tay ông "Làm sao, ông kêu lên, chúng ta có thể đối xử những người cùng đạo với giám mục Adran (Bá Đa Lộc hay cha Cả) và những người Pháp đã giúp chúng ta trước kia như vậy, nhờ họ mà ngày nay chúng ta vẫn còn nhai gạo giữa hai hàm răng của chúng ta ?”. “Không”, ông nói tiếp, trong lúc tức giận về sự phản bội này, đã xé tờ lệnh của vua trong tay, “khi nào mà ta còn sống thì không thể làm như vậy được, nhà vua có thể làm như ý muốn sau khi ta chết." (3).

Lê Văn Duyệt trị rất nghiêm khắc, làm dân ở Nam kỳ và Cao Miên nể sợ, tuy vậy có lúc hơi quá đáng. Ông xử trảm trước không hỏi ý kiến vua hay thượng thư bộ hình.

Một thí dụ điển hình là ông đã xử tử một thơ lại của ông không thương tiếc. Người thơ lại này lúc đi ra khỏi văn phòng thấy ở cửa thành một người đàn bà đang bán cháo hay bán đường. Ông ta muốn giỡn chọc ghẹo bà ấy, ông để tay lên hộp trầu mà bà đã để trên nắp giỏ của bà. Bà này kêu lên ăn cắp. Ông thơ lại bị bắt và bị xử trảm trên cánh đồng theo lệnh của Lê Văn Duyệt không qua một quá trình xét xử nào cả. Chẳng bao lâu, vụ này được truyền làm sợ hãi khắp Nam kỳ.

Để làm người Cao Miên kính nể và sợ hãi, ông cho vua Cao Miên Udong thấy con người phi thường và đầy quyền lực của ông. Ngồi trên bệ cao kế vua Oudong, ông ăn đường phèn và uống trà. Những người Cao Miên ngồi gần đó nghe tiếng kêu gảy giòn dưới răng của Lê Văn Duyệt lúc nhai mấy cục đường, bèn hỏi những quan lại Việt nam có mặt ở buổi chiêu đãi này là ông tướng trời đang ăn gì vậy. Những người này trả lời là đó là những viên đá sỏi mà ngài tướng trời đang nhai trong miệng.


hinh-8

Hình 8: Saigon – 1815, vẽ theo bản đồ của Trần Văn Học, người theo vua Gia Long và giáo sĩ Bá Đa Lộc trong những năm bôn tảo và chiến tranh với Tây Sơn ở Gia Định (nguồn: “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Đình Đầu)


Cao Miên lúc đó đang dưới sự bảo hộ của Việt nam, vị vua xứ này hàng năm vào dịp tết buộc phải đến Saigon để thần phục hoàng đế Việt Nam trong chùa hoàng gia, cùng lúc với phó vương tổng trấn Gia định thành. Nhà vua cao Miên đi cùng sứ giả Việt có nhiệm vụ lo việc bảo hộ đến đêm trước của ngày đầu năm; nhưng thay vì ở Saigon, lại ngủ qua đêm ở Chợ Lớn. Đến 5 giờ sáng đầu năm, tổng trấn cử hành nghi thức lễ trong tiếng nhạc mà nhà vua không có mặt. Nhà vua Cao Miên đến thì buổi lễ đã chấm dứt. Ông bị phạt không thương tiếc 3000 tiền franc bắt buộc phải trả trước khi trở lại Cao Miên.

Ông tổng trấn rất thích chơi đá gà, hài kịch và hát tuồng. Ông nâng đỡ, nuôi nhiều nghệ sĩ và có rạp hát riêng. Các toà nhà dùng trong các giải trí này ở ngoài tường thành Saigon (thành Quy) trên vùng đất mà ngày nay là dinh thống đốc và trường Chasseloup Laubat (Lê Quý Đôn).

Trong cánh đồng mả (plaine des tombeaux) có vài mộ nổi tiếng, có liên hệ đến lịch sử. Một ngôi mộ ở cạnh đường rầy xe lửa (tramway), kế nhà Vandelet (chú thích: Octave Vandelet là thương gia người Pháp, chủ trại đầu tư trồng nho nhưng thất bại ở Vũng Tàu, cố vấn và là bạn vua Cam Bốt Norodom và Sri Sowath). Ngôi mộ này được vua Minh Mạng xây và săn sóc cẩn thận để tưởng niệm cha vợ của nhà vua, ông Huỳnh Công Lý. Huỳnh Công Lý là quan trấn của tỉnh Gia Định (Saigon) dưới quyền của tổng trấn Lê Văn Duyệt, bị xử trảm qua lệnh của Lê Văn Duyệt vì trong lúc ngài phó vương ra Huế, Lý có gian díu với các người vợ của ngài phó vương tổng trấn. Khi trở về, được nghe nói lại như vậy, đã xử trảm Huỳnh Công Lý không cần phải có lý do hệ trọng nào và không để ý đến vua Minh Mạng. Một mộ lớn khác kế lăng mộ Cha Cả là mộ Tả dinh, em của phó vương Lê Văn Duyệt, chết một năm trước ngài phó vương mất.

Năm 1832, tổng trấn Lê Văn Duyệt mất. Sau khi ông mất, Minh Mạng bổ người thay thế và thẳng tay trừng trị Lê Văn Duyệt và những người theo ông đã không theo chánh sách bài ngoại, đóng cửa, bảo thủ phong kiến tập trung quyền lực của Minh Mạng, bằng cách đàn áp và bắt nhốt các người thân cận theo ông. Người con nuôi của ông là một người Mường, tên là Lê Văn Khôi đã nổi lên, giết viên tổng trấn mới, rồi đứng lên kêu gọi chống lại triều đình Minh Mạng. Lê Văn Khôi được sự ủng hộ của các người Hoa ở Saigon - Chợ Lớn, giáo dân theo đạo, người Chăm ở Pandagura, người Khmer, các dân tộc bản xứ gốc Tây nguyên, các lưu dân Việt và của kiều dân và giáo sĩ Pháp trước đây theo Gia Long ở Saigon. Sự khởi nghĩa của Lê Văn Khôi phản ảnh sự bất bình cao độ của người dân Gia Định về chính sách của Minh Mạng. Cuộc khởi nghĩa này đồng thời với cuộc khởi nghĩa lớn ở Cao bằng vùng Bắc bộ của người Tày-Nùng do Nông Văn Vân lãnh đạo. Miền Nam đã có liên hệ lịch sử và cảm tình với các chúa Nguyễn từ bao đời qua công sức mở đất cho lưu dân tứ xứ đủ mọi dân tộc và tinh thần bao dung và chấp nhận sự đa dạng, nhưng đây là một sứt mẻ to lớn về ý thức hệ và niềm tin vào triều đình nhà Nguyễn, bước đầu cho sự chia cắt về nhân sinh quan và ý thức hệ giữa hai miền.

Sau khi khởi nghĩa của Lê Văn Khôi không thành, thành Saigon nơi Lê Văn Khôi rút vào trấn thủ bị quân triều đình chiếm lại tháng 9-1835. Lê Văn Khôi đã mất vì bệnh trước đó nhưng có 1137 người bị triều đình Minh Mạng xử tử ở “cánh đồng mả” (plaine de tombeaux), ngay tại “cánh đồng đa giác” (champ du polygone), gần đường Thuận Kiều (nay là đường Cách mạng tháng 8) và chôn ngay tai đó gọi là mả biền tru hay mả ngụy. Người con của Lê Văn Khôi mới 7 tuổi cùng 4 đồng đảng trong đó có một người Hoa và một giáo sĩ người Pháp tên là Joseph Marchand (có mặt trong thành) đã bị đóng cũi nhốt và mang ra Huế chịu nhục hình. Thủ cấp sau đó được mang bày ở miền Bắc để răn đe. Người Hoa chịu nhục hình có tên là Mạch Tấn Giai, là tác giả bài thơ truyện lục bát 308 câu kể lại cuộc khởi nghĩa trước khi bị xử tử. Bài thơ truyện này có tên là Bốn bang. Có thể Bốn bang ở đây là ý chỉ 4 bang người Hoa đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa.

Thành Gia Định kiên cố theo kiểu Vauban của Victor Olivier de Puymaniel bi Minh Mạng ra lệnh phá đi và cho xây lại nhỏ và yếu hơn, được gọi là thành Phụng hay thành Phiên An mà sau này vào năm 1859 quân Pháp đã đánh chiếm. Minh Mạng còn cho phá mộ của ông Lê Văn Duyệt ở làng Bà Chiểu, xiềng xích trên mộ với hàng chữ “Quyền yêm hoạn Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (nơi đây viên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu phép nước), Năm 1848, vua Tự Đức đã minh oan cho Lê Văn Duyệt và cho xây lại lăng mộ.

Theo Nguyễn Công Tánh trích dẫn Đại nam Nhất thống chí (9) thì “Thành tỉnh Gia Định do Minh Mạng xây cất có chu vi 429 trượng (1960m), cao 10 thước 3 tấc (4m70), hào rộng 11 trượng 4 thước (52m07), sâu 7 thước (3m19), có 4 cửa ở địa phận thôn Nghĩa Hòa huyện Bình Dương.

Trên bản đồ thành phố Sài Gòn ngày nay thành Gia Định của Minh Mạng thường được gọi là thành Phụng xây cất nằm ở góc đông bắc của thành cũ (thành Quy của Gia Long) tức là nằm trong chu vi của 4 con đường: Nguyễn Du là mặt trước, Nguyễn Đình Chiểu là mặt sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm là mặt bên trái, Mạc Đĩnh Chi là ở bên phía tay mặt. Thành Phụng (1836) mặt trước nhìn ra đường Cường Để-Bến Bạch Đằng; mặt sau nhìn ra đường Đinh Tiên Hoàng; mặt trái và phải đều hướng ra đường Hồng Thập Tự (Chasseloup Laubat)” (9).


hinh-9

Hình 9: Saigon 1867 – Thành Saigon vẫn còn trên bản đồ. Có thể chỉ còn là khu đất trống với mấy bức tường vì năm 1859, Rigault de Genouilly đã cho đốt phá hết các kho lương thực gạo, trại lính, dinh điện... sau khi đã hạ được thành.


Thành Saigon (thành Phụng) nhỏ hơn và không kiên cố như Gia Định thành (thành Quy) bị Minh Mạng phá đi. Theo bản đồ Saigon 1867 ở trên, để ý là đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) và đường Boulevard de la Citadelle (Tôn Đức Thắng và Đinh Tiên Hoàng) giao nhau ở ngay trung tâm thành Phụng. Thành Phụng nằm gọn giữa bốn đường: rue Taberd (Nguyễn Du), rue des Mois (Nguyễn Đình Chiểu), rue de Bangkok (Mạc Đĩnh Chi) và rue Rousseau (Nguyễn Bỉnh Khiêm trước sở thú). Miếu Barbé nằm bên phải đường Chasseloup Laubat đi về hướng Phú Lâm - Chợ Lớn ở cánh đồng mả (plaine des tombeaux) đối diện với dinh Độc Lập (Thống Nhất). Tại miếu Barbé trước đây, viên tướng Pháp Charner đã đặt trọng pháo cùng với các trọng pháo khác ở phía đồn Cây Mai chĩa mũi tấn công vào đồn Chí Hòa (Pháp gọi là Kỳ Hòa) vào năm 1861 trong một thời gian, cuối cùng họ đã chiếm và hạ được đồn Kỳ Hòa, nơi Nguyễn Tri Phương trấn thủ.

(chú thích: Nicolas Barbé là viên đại úy Pháp trấn giữ chùa Khải Tường, khi đề đốc Rigault de Genouilly để một ít quân lại ở Saigon để ra Đà Nẵng. Ngày 7/12/1860, Barbé bị quân Việt Nam phóng lao phục kích khi đi ngựa ra ngoài trên đường đến chùa Hiển Trung (pagoda des Mares) và thủ cấp ông được mang về thành Kì Hòa, được thiết lập gần đó để bao vây quân Pháp trấn đóng ở “phòng tuyến chùa” từ Saigon đến Chợ Lớn. Nhà văn Le Verdier dùng Barbé là một nhân vật chính trong tác phẩm ”Scène de la vie annammite, Ki-Hoa”).

Ta hãy đi theo hành trình mà ông Trương Vĩnh Ký mô tả (3) trên con đường từ Saigon đến Chợ Lớn (người Pháp gọi là route haute tức đường trên), qua các địa danh cũ của Saigon - Chợ Lớn trước khi người Pháp đến trong các đoạn sau.

Đường trên đi từ Saigon đến Chợ Lớn bắt đầu từ khu tòa án ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký, Pháp mới xây thay thế tòa án trong thành Saigon đã bị phá) và nhà tù gần đó. Khu tòa án ngày xưa gọi là xóm Vườn Mít vì nơi đây có một vườn mít lớn. Tại nơi tòa án và nhà giam xưa có một chợ gọi là “Chợ da còm”, nơi đây có một cây đa rất lớn với thân cong queo. Sau chợ này về phía phải đi về hướng Chợ Lớn là “Chợ đũi” bán vải.

Xa chút nữa trước khi đến đường Thuận Kiều (nay là Cách mạng tháng 8) là “Xóm đệm buồm”. Trên đường Thuận Kiều đi qua “Chợ cây đa thằng mọi” và “Chợ điều khiển”. Sở dĩ gọi là “Chợ cây đa thằng mọi” vì ở chợ này có nhiều người bán đèn dầu bằng đất có hình thằng mọi đội đèn trên đầu. Chợ này kéo dài từ trước nhà ông Blancsubé cho đến đường sắt. Đi xa hơn qua cánh đồng mả (plaine des tombeaux), nước từ vùng này đổ vào một rạch sau nhà Blancsubé. Khúc đường ở đây lúc nào cũng ẩm. Người ta gọi khúc đường này là "Nước nhĩ" do nước chảy nhĩ ra.

(ghi chú của dịch giả: Jules Blancsubé là thị trưởng Saigon và chủ tịch Hội đồng quản hạt. Ông là luật sư cải cách, chống lại sự lạm quyền, và quyền hạn độc đoán của chức vụ thống đốc Nam kỳ như (Duperré) mà ông cho là đi ngược lại nguyên lý bình đẳng của hiến pháp cách mạng Pháp, và nguyên lý phân cách quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; ông có tư tưởng cộng hòa chống độc tài của hoàng đế Napoleon III của Pháp. Công lý theo ông phải được áp dụng như nhau cho mọi công dân Saigon không kể chủng tộc, tư pháp phải độc lập với hành pháp mà chức vụ tối cao là thống đốc, thống đốc không được quyền bổ nhiệm người vào tòa án, tòa án xét lại, kiểm tra. Ông tự nhận mình là công dân Saigon và khi đắc cử thị trưởng ông đã thiết lập những cải cách rộng lớn về luật pháp (13). Sau này có con đường Blancsubé đi qua gần nhà ông, sau đổi thành rue d’Arras, ngày nay là đường Cống Quỳnh. Đường Blancsubé về sau là đường Catinat nối dài nay là Phạm Ngọc Thạch. Quảng trường hồ con rùa ngày nay trước đây cũng được gọi là quảng trường Blancsubé)

Sau đó là đến chùa Kim Chương. Chùa Kim Chương do vua Gia Long xây trên nền một chùa xưa của người Khmer. Nơi đây có hai biến cố mà lịch sử chưa được biết nhiều. Chúa Duệ Tông, chú của vua Gia Long và hoàng tử Mục vương bị Tây sơn bắt ở Bassac (Cà Mau) năm 1776 và Mục Vương bị bắt ở Ba vác (xưa thuộc tỉnh Vĩnh Long, nay trong pham vi tỉnh Bến Tre phía đông bắc Mỏ Cày) không lâu sau đó. Cả hai bị xử tử trong chùa này năm 1776. Ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký) trong chùa này có hai điện: Hiển trung tự và miễu công thần.


hinh-10

Hình 10: Bản đồ Saigon-Chợ Lớn sau khi Pháp chiếm 1859


hinh-11

Hình 11: Bản đồ Saigon - Chợ Lớn lúc người Pháp đến 1859 (nguồn: Tour du Monde 1860). Để ý gần Chợ Lớn có một chùa (pagode) trên bản đồ đó là chùa Cây Mai. Sông “Donnai” trên bản đồ là sông Saigon hay sông Tân Bình và trước khi vào cảng Saigon có 2 đồn (fort) ở hai bên bờ sông, có thể là pháo đồn Cá Trê (Tả binh pháo) và pháo đồn Giao khẩu (hữu binh pháo). Bên trong thành Saigon có ghi vị trí “điện vua”, “điện hoàng hậu”, “điện hoàng tử”, các trại lính, nhà thương, cột cờ, kho thuốc súng…như trong bản đồ hình 5.


Bắt đầu vào Chợ Lớn, trước hết là gặp “Xóm bột”, làng này làm và bán bột vì thế gọi là xóm bột. Sau làng này là “Chợ hôm” (chơ, họp lúc chiều tối). Sau chợ này là một ngôi chùa gọi là Trần tướng, Trần tướng là một trong các tướng của Gia Long bị Tây sơn giết và được vua Gia Long xây một ngôi chùa tại đây để tưởng niệm.

Trên một rạch nhỏ, nơi có các chùa của nghĩa địa người Hoa, có một cầu nhỏ gọi là “Cầu Linh Yển”. Theo truyền thống thì một binh sĩ tên là Yển đã cõng vua Gia Long lên vai trốn chạy Tây sơn rượt đuổi. Khi đến cầu này, một binh sĩ khác đã thay thế binh sĩ Yển để tiếp tục cõng vua chạy. Vì mệt nên anh ta (Yển) đã phải dừng lại để nghỉ mệt và vì thế bị quân Tây Sơn đuổi kịp và giết chết. Vua Gia Long đã xây tại nơi này một ngôi chùa để tưởng niệm. Làng này gọi là Tân Thuận hay Hàm luông. Khu này có một cây me lớn và dưới báng cây me này là các quán gọi là “Quán bánh nghệ”. Ở đó trên đường nay (thời Trương Vĩnh Ký) gọi là Rue des Marins (nay là Trần Hưng Đạo nối dài) có nhiều nhà tập trung lại thành “Xóm cốm” và “Xóm chỉ”.

….

Giờ chúng ta trở bước lại ra về, chúng ta đến Chợ quán. Tên Chợ quán, áp dụng cho các làng Tân Kiểng, Nhơn Giang, Bình Yên, là tên một chợ họp ở dưới các cây me lớn ở đại lộ nhà thương Chợ Quán (avenue de l'hôpital de Chợ Quán). Ở đây cũng có nhiều quán trọ nên gọi là Chợ quán.

Giữa đại lộ nhà thương và một nông trại trong khu các đầm ao (des Mares, khu này thời Trương Vĩnh Ký gọi là ao đầm vì có nhiều đầm và ao, sau này là trạm quân sự thành Ô Ma hay Camp des Mares và là trụ sở công an thành phố giáp đường Nguyễn Văn Cừ ngày nay) là làng thợ đúc, Nhơn ngãi (nay, tức thời Trương Vĩnh Ký, gọi là Nhơn Giang). Nơi đây người ta có thể thấy được các vết tích của một làng cổ Cao Miên với nhiều tháp làm bằng đá được tìm thấy ở một khu nhà. Lúc đào ở đây, người ta tìm thấy những đá Khmer, các đá nung hình lục bình, các tượng phật nhỏ bằng đồng, bằng đá. Còn có hai tảng đá granit lớn được đánh bóng với các tượng chạm trổ khắc nổi trên đá.

Từ Chợ quán (làng Nhơn Giang) cho đến đường xuống "Cầu kho", bên đường là các nhà chung quanh có vườn rải rác cách nhau. Phía trên đường Cầu kho cho đến nhà Blancsubé, cũng có một số người ở. Vùng này thời Gia Long, có nhiều người ăn mày sống rất cực khổ.

Khi thấy quân Tây Sơn rượt đuổi vua Gia Long đi ngang qua, họ đã tụ lại đánh trống khiêng nghe rất lớn kinh thiên động địa. Quân Tây Sơn phải dừng lại, tưởng là gặp phải một chướng ngại khó vượt qua. Vua Gia Long sau đó đã xây khu nhà cho những người ăn mày này để thưởng công họ. Làng này có tên là Tân lộc phường.

Cầu trên rạch sau nhà ông Blancsubé gọi là "Cầu gạo", nơi đây người ta bán gạo. Ngày xưa người Cao Miên trồng lúa và làm chiếu ở vùng này. Trước nhà ông Spooner, người ta bán lá buôn và các nhà tụ lại gọi là "xóm lá buôn". Từ đây đi đến nhà giam thành phố, bên bờ đường là các nhà vườn quê của các quan (mandarin) và chức sắc triều đình. Phía trên đường Boresse (rue Boresse, tức đường Yersin ngày nay) là "Cầu quan" (rue des mandarins).

(Chú thích dịch giả: “Cầu quan” ở trên rạch cùng tên. Boresse là tên trung úy hải quân Pháp được đô đốc Jauréguiberry chỉ định thiết lập cảnh sát và cơ quan hành chánh Saigon sau khi Pháp chiếm, có đi cùng với phái bộ Phan Thanh Giản trở về Saigon năm 1864 sau khi phái đoàn qua Pháp điều đình. Ông Andrew Spooner là thương gia có cơ sở nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Chợ Lớn. Ông là người Mỹ sinh năm 1840, mất ngày 29/7/1884. Từ năm 18 tuổi đã qua Á châu làm ăn, ông là thuơng gia (negociant) ở Singapore 1 năm, sau đó đến Saigon. Hai năm sau ông là ký giả cho báo “l’Ilustration” ở Nam kỳ năm 1861, theo đoàn quân Pháp đánh Biên Hòa ngày 9/12/1861 và tường trình trận đánh này trên tờ báo “l’Illustration”. Trong giai đoạn phôi thai Pháp đến Saigon, vì có tài thương mại, ông được nhà cầm quyền Pháp cử làm Ủy viên (commissaire) quản lý Sở quan thuế (Douanes et Regis) từ năm 1870 đến lúc chính thức thành lập năm 1882. Sở này nằm cạnh sông Saigon, gần nhà ông Vương Thái và gần Xưởng làm thuốc phiện. Ông cũng hợp tác với người Hoa làm thuốc phiện. Năm 1862, đề đốc Bonard cử ông dẫn đầu đoàn thám hiểm đi ngược dòng sông Mekong lên Angkor và Battambang để nghiên cứu và tường trình về kinh tế, khả năng thương mại ở Cam Bốt (55). Ông đầu tư vào một nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Chợ Lớn, mở dịch vụ chuyên chở Saigon - Pnom Penh bằng tàu hơi nước hai lần mỗi tháng. Ông làm thêm dịch vụ cung cấp gas đốt đèn đường và nhà trong thành phố Saigon. Ông cũng là hội viên của Hội đồng tư vấn thuộc địa (conseil prive de la colonie) (54). Ông là người Mỹ đầu tiên sống và định cư ở Saigon)

Trở lại lên đường Mac Mahon cho đến đường Mọi, nơi có toà án mới, dinh thống đốc, trường Chasseloup Laubat (Lê Quí Đôn) mà chúng ta thấy bên trái, tất cả đều nằm ngoài thành Saigon xưa. Ở đây dưới thời quan tổng trấn hoạn quan, phó vương Lê Văn Duyệt, là dinh của vợ ông (dinh bà lớn), nhà hoa của phó vương, nhà hát và trường ná (trường bắn).

Cạnh nhà của ông de Lanneau, người ta vẫn còn thấy 2 cây phi lao, ở đây ngày xưa là Nền xã tắc, hình cái nón cúng thần đất. Công viên của thành phố là Xóm lụa xưa kia (nơi làm lụa, tẩy trắng và bán lụa). Trên đường chiến lược (route strategique, đi Chợ Lớn, tức đường Chasseloup Laubat sau này, ngày nay là Nguyễn Thị Minh Khai)) cho đến phía trên của Sở nuôi ngựa, là Xóm thuẫn, Xóm chậu và Xóm củ cải.

(chú thích: de Lanneau là giám đốc hành chánh và tài chánh ở Nam kỳ, l’inspecteur des services administratives et financiers)

Giờ ta hãy quay về phía phải đi theo con đường Mọi (rue des Mois, Nguyễn Đình Chiểu ngày nay) cho đến cầu thứ hai trên Rạch Thị Nghè, chúng ta sẽ thấy bên phải đối diện với nhà ông Potteaux, là nhà tù xưa của Saigon và xa hơn nữa là công viên cho voi (xưa thành Saigon có nuôi voi dùng trong chiến tranh và để di chuyển) và một chợ tên là Chợ vông, ở giữa nghĩa địa và cầu thứ hai.

(chú thích: Ernest Potteaux là người đứng ra làm tờ Gia Định báo năm 1865, báo quốc ngữ đầu tiên mà sau này Trương Vĩnh Ký thay thế làm chủ nhiệm năm 1869. Potteaux thông thạo tiếng Việt và làm thông ngôn cho chính quyền Pháp).

Cầu thứ ba, Cầu Xóm kiệu (nay là Tân Định), cho đến chợ Chợ xã tài, ngày xưa là một làng lớn có 72 chùa. Giờ chúng ta đi xuống cầu thứ hai ở cửa rạch Thị Nghè. Cầu thứ hai ngày xưa có tên là Cầu Cao mên; sau đó gọi là Cầu Hoa. Từ "Hoa" bị kị húy bởi tên của một hoàng tử, vì thế người ta đổi tên là Cầu Bông.

Sự cấm đạo gay gắt dưới thời Minh Mạng được tiếp tục trong thời Thiệu Tri và Tự Đức. Từ năm 1857 khi linh mục Pellerin từ Nam kỳ trở về Pháp, Pellerin đã vận động với các cấp trong Công giáo (như Père Huc), nữ hoàng Eugenie, bộ ngoại giao Pháp ở quai d’Orsay và báo chí. Qua bức thư của cha Huc gởi Hoàng đế Napoleon III, một Ủy ban đặc biệt về Nam kỳ (Commission spéciale pour la Cochinchine). Pellerin và Huc thuyết trình ở Ủy ban và gặp hoàng đế Napoleon III. Tháng 9 năm 1857, vua Tự Đức xử trảm Monsignor Diaz, một linh mục người Tây Ban Nha ở Bắc hà. Thêm một cái cớ để Pháp đánh Việt Nam. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha được thành lập dưới sự chỉ huy của đề đốc (amiral) Rigault de Genouilly. Hạm đội của Genouiily tháng 9 năm 1858 đánh phá và đổ bộ Đà Nẵng, nhưng gặp khó khăn do quan quân triều đình Huế chống trả. Để lại một số quân và chiến thuyền ở Đà Nẵng, đề đốc Genouilly mang hạm đội vào Nam tấn công Gia Định. Thành Saigon thất thủ ngày 17 tháng 2 1859. Nhưng vì thành quá lớn để có thể giữ được, quân Pháp phá hủy thành Saigon và đốt cháy kho lương chứa gạo khổng lồ. Để lại một số quân giữ Saigon, Genouilly quay trở lại Đà nẵng nhưng tại đấy không đạt được tiến triển mong muốn. Rigault de Genouilly bị chỉ trích ở Pháp và được thay bởi đề đốc Francois Page.

hinh-12

Hình 12: Quân Pháp tấn công thành Saigon 17-2-1859

Pháp lập phòng tuyến các chùa (ligne des pagodes) gồm chùa Cây Mai, chùa Barbé (chùa Khải Tường), chùa Clochetons (Kiểng Phước, theo Vương Hồng Sển thì ở đầu đường Phù Đổng Thiên Vương ngày nay, trước kia mang tên là đường Clochetons, gần thánh đường Hồi giáo trên vùng đất cao ráo nay là nền trường Đại học Y khoa), chùa Pagode des Mares (chùa Hiển Trung). Phòng tuyến này trải dài từ Chợ Lớn đến Saigon để bao vây đánh đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa), viện binh do Nguyễn Tri Phương chỉ huy mà triều đình Huế gởi vào để đánh chiếm lại Saigon khỏi tay người Pháp. Hai chùa Barbé và Kiểng Phước là gạch nối liên lạc giữa Saigon và Chợ Lớn nơi có đồn Cây Mai. Chùa Kiểng Phước vào năm 1860 đã bị lính Pháp do đại úy Malet chỉ huy chiếm đóng và biến thành đồn “clochetons” làm nơi đóng quân, phòng thủ trong khi đề đốc Charner đang ở Trung Quốc. Chùa Kiểng Phước (đồn clochetons) là đầu mối liên lạc giữa Chợ Lớn với Saigon và Chợ quán.

Trong lúc liên quân Pháp-Tây Ban Nha ở lại cầm cự trấn giữ Saigon sau khi Genouilly ra Đà Nẵng, thì cảng Saigon được Pháp cho mở cửa tự do thông thương với các tàu nước ngoài. Tàu từ nhiều nơi đến mua bán hàng hóa ở cảng Saigon-Chợ Lớn tấp nập gần sông và kinh rạch Chợ Lớn trong khi đại binh Nguyễn Tri Phương đóng ở phòng tuyến Kỳ Hòa cách đó không xa đang tìm cách phản công lấy lại Saigon.

Theo Midan (15) thì qua các bản vẽ sơ đồ 1:5000 kế hoạch thành phố “Saigon, ville de 500.000 âmes” có chữ ký của thượng sĩ Clipet, trung tá công binh Coffyn và đề đốc Bonard mà Midan tìm được trong kho lưu trữ “Archives de la Direction de l’Artillerie à Saigon” thì có ghi vị trí chùa pagode des clochetons thành đồn clochetons. Dùng bản đồ kế hoạch tương lai xây cất Saigon thành phố 500000 dân xưa nhất này của trung tá Coffyn và so sánh với bản đồ thật sự lúc đó (1934) với cùng tỉ lệ, Midan đi đến kết luận: “Chùa Kiểng Phước (clochetons) ở đại lộ Marechal Foch kéo dài từ đường Rue des clochetons, bắt ngang qua hai lô đất 21 và 22 của bản đồ mới, phần chính là nằm trên địa điểm thật sự của trường Ecoles des Filles và khu đất cạnh đường Armand Rousseau”. (chú thích: đại lộ Marechal Foch là Lý Thường Kiệt và Armand Rousseau là Nguyễn Chí Thanh ngày nay)

Cũng theo Midan, thì thơ của ông Passerat de la Chapelle, kế toán trưởng Chợ Lớn, gởi cho ông chủ tịch thành phố nói là khi ông mới đến Chợ Lớn vào tháng 6-1891, ông được thành phố cho ở trong một tòa nhà trong khu chùa Kiểng Phước, mà ông nói thật ra là trường mẫu giáo. Trường mẫu giáo (ecole maternelle) đổi thành trường nữ sinh (ecole des filles) vào năm 1917. Như vậy trái với Vương Hồng Sển, chùa Kiểng Phước không nằm ở phía đại học y dược ngày nay mà ở nhích phía trên, nơi trường mầm non gần bệnh viện Chợ Rẫy góc đường Lý Thường Kiệt và Nguyễn Chí Thanh ngày nay. Tư liệu cho thấy chùa Kiểng Phước của người Hoa cột bằng gỗ, hai cổng và tường là gạch và đã biến mất chỉ còn mấy cây gỗ mục trong khuôn viên chùa vào năm 1866 (14).

Chùa Khải Tường (Berbet) là nơi vua Minh Mạng sanh năm 1790 khi Nguyễn Ánh còn trú tại Saigon trong cuộc chiến với Tây Sơn. Sau này để tưởng nhớ, vua Gia Long đã dâng cúng tượng Phật A di Đà rất đẹp cho chùa, tượng này nay ở Viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh (trong sở thú).

Vi trí chùa Khải Tường ngày nay được nhiều người cho là Viện bảo tàng chứng tích chiến tranh, số 28 đường Võ Văn Tần (đường Testard thời Pháp, Trần Quí Cáp trước 1975). Theo Midan, sau khi Pháp đánh chiếm Saigon, thì 10 năm sau (1869), chuẩn đô đốc G. Ohier cho xây lại chùa và trong khuôn viên xây các trại lính cảnh sát. Hợp đồng xây sau đó được ký kết giữa ông Hermite, kiến trúc sư thuộc địa, trưởng phòng sở công chánh với một doanh nhân người Hoa giàu có ở Saigon tên là A-Fo. Nhưng hợp đồng không được thực hiện.

Dùng bản đồ 1:2000 năm 1871, so sánh với bản đồ năm 1931, Midan đưa đến kết luận: “Chùa Berbet ở lô đất 1 (số 93 đường Richaud, xưa là rue no. 27, đường 27, sau đó là rue des Mois, đường người Mọi) và lô đất 8 và 9 (số 26 đường Testard). Lô 1 ngày nay (1934) là tòa nhà của Chartered Bank, lô 8 và 9 là biệt thự của ông Matthieu ở góc đường Testard và Berbet. Đồn Berbet mà chỉ dụ của thống đốc Ohier ban ngày 10 tháng 9 năm 1869 nói đến là ở lô 24 nay là nhà của Chủ tịch Tòa án đầu tiên, số 6 đường Berbet” (chú thích: đường Richaud là Nguyễn Đình Chiểu, Testard là Võ Văn Tần và Berbet là Lê Quý Đôn ngày nay). Theo Bouchot thì chùa Barbé (đúng hơn tên mà nhiều người gọi nhầm lẫn Berbet) bị phá hủy năm 1904 (17).

Chùa Hiển Trung gồm hai miếu miếu Công thần và miếu Hội đồng do vua Gia Long xây dựng ở khu xóm nhiều đầm lầy gần làng Chợ Quán về phía Chợ Lớn gọi là xóm Ô Ma (sau này thành nơi đóng quân, nuôi ngựa của Pháp gọi là thành Ô Ma, đường Nancy nay là trụ sở công an đường Nguyễn Văn Cừ).

Quân thủy binh, bộ binh Pháp - Tây Ban Nha chiếm giữ các phòng tuyến chùa này cùng các đại pháo mang từ các tàu chiến đậu trên sông, rạch Saigon và Chợ Lớn tham gia cuộc tấn công đồn Kỳ Hòa năm 1860-1861. Chỉ huy trong trận này là phó đô đốc Charner, người thay thế đề đốc Francois Page và Rigault de Genouilly mà năm trước đó (1859) đứng đầu liên quân Pháp - Tây ban Nha đã hạ và phá hủy thành Saigon. Grenouilly chiếm giũ và thành lập các đồn gần trung tâm Saigon, như đồn Saigon, chùa Berbet để phòng sự phản công của triều đình Huế.

Sau chiến dịch ở Trung quốc, đoàn tàu chiến hạm Pháp đi vào Saigon để tiếp viện cho quân Pháp - Tây Ban Nha đang cầm cự và đánh chiếm nốt các tỉnh thành chung quanh Saigon.

Khu trú ngụ của nhiều thủy quân là khu vực Rue des Marins (đường Đồng Khánh, ngày nay gọi là Trần Hưng Đạo nối dài) gần đường Tản Đà (rue de Jacccario) nơi trước kia chiến hạm Jaccario đậu để hỗ trợ thủy binh và lính đóng tại đồn Cây Mai trong trận vây đánh thành Kì Hòa do Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Đa số quân Tây Ban Nha đóng dinh trại tại vùng sau này gọi là rue d’ Espagne (Lê Thánh Tôn ngày nay).


hinh-13

Hình 13: Thành Saigon 1870 – bên trong người Pháp đã thay đổi tất cả, xây chỗ ở cho sĩ quan, trại lính, kho bạc, nhà tù.


Năm 1860, vừa sau khi đánh chiếm Saigon, đã có đề nghị trong Hội đồng quản hạt (consei colonial) về vấn đề lấp kinh chợ Vải (ngay đường Nguyễn Huệ ngày nay). Vấn đề này đưa đến sự tranh cãi sôi nổi giữa hai bên: nhóm ủng hộ về vấn đề vệ sinh rạch và nhóm thương nhân chống vì lợi ích thực tiễn thương mại (10). Vấn đề lấp kinh được hoãn cho tới 25 năm sau.


7. Tổng kết: Saigon giai đoạn thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19


Saigon từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 là thời kỳ lưu dân người Việt từ miền Trung và người Hoa từ nam trung quốc đến lập nghiệp và biến vùng đất hoang vu ít người này thành một vùng định cư trù phú mang dấu ấn văn hóa Việt-Hoa hấp thụ và thay thế dần nét văn hóa và đời sống của các dân tộc bản xứ và người Khmer. Dù vậy cho đến đầu thế kỷ 20, chung quanh Saigon vẫn còn nhiều người bản xứ như ở vùng Biên Hòa, Tân Uyên, Thủ Dầu Một, Thủ Đức, Bà Rịa (còn được gọi là xứ Mọi và là nơi có nhiều thú dữ như voi, cọp) và người Khmer cư ngụ như ở Long An. Ngay tại Saigon, cho đến đầu thế kỷ 19, vẫn còn một số người bản xứ và nhiều người Khmer. Người Âu từ phương tây cũng đã đến Saigon và các vùng phụ cận từ trước thế kỷ 18. Những người này là người Bồ, Pháp, Ý, đa số là giáo sĩ, thương gia và các người mạo hiểm. Sau này có thêm các quân nhân, sĩ quan hải quân Pháp tình nguyện đi cùng giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh.

Các biến cố quan trọng ở Saigon trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19

  • Saigon là chiến trường giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Trong giai đoạn này có sự có mặt của Bá Đa Lộc là một người thông thạo tiếng Việt, để lại nhiều sách, bài viết về ngôn ngữ, văn hóa (22). Không thành công khi trở lại Pháp với hoàng tử Cảnh trong sự việc mang đoàn tàu Pháp đến Gia Định giúp Nguyễn Ánh như mong ước, nhưng đã có một số lính và sĩ quan tình nguyện bỏ Hải quân theo Bá Đa Lộc đến Việt Nam như Dayot, Chaigneau, Vannier..
  • Lê Văn Duyệt làm tổng trấn sau khi Nguyễn Ánh trở lại Huế. Chính sách của Lê Văn Duyệt phản ảnh tư tưởng mở rộng đa chiều mà xã hội Saigon và miền Nam được tạo thành. Nguyễn Ánh sau khi thống nhất đất nước thay vì ở lại Saigon, vùng đất với tinh thần khai phóng lại trở về nguồn để tái lập truyền thống phong kiến xưa. Saigon nói riêng và Việt Nam nói chung mất cơ hội phát triển với hệ thống mở, trở nên đầu nguồn của các tư tưởng mới
  • Khởi nghĩa của Lê Văn Khôi. Sự bất đồng giữa tổng trấn Lê Văn Duyệt với chính sách độc đoán, bài ngoại, và đóng cửa với thế giới bên ngoài của vua Minh Mạng dẫn tới sự trừng phạt những người thân tín và theo tổng trấn của Minh Mạng sau khi Lê Văn Duyệt mất dẫn đến sự nổi dậy của Lê Văn Khôi với sự tham dự của lưu dân người Việt, Hoa, người Chăm, Khmer và bản xứ. Sự thất bại của khởi nghĩa và Việt Nam, qua Minh Mạng, đã chọn lựa đi theo một chủ thuyết độc tôn văn hóa, cứng rắn tập trung, bài thương mại, dẫn đến sự chạm trán các nền văn minh sau này.

Nguyễn Đức Hiệp



Xem Phần I

Xem Phần II



Tham Khảo


(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai,
http://namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf

(2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883.

(3) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.

(4) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.

(5) Trần Ngọc Quang, Saigon và những tên đường xưa,
http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-saigontenduongxua.pdf.

(6) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ

(7) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830.

(8) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online:
http://www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up

(9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993,
http://motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon

(10) Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm

(11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.

(12) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : http://purl.pt/126

(13) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879.

(14) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887.

(15) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon, Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934.

(16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880.
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination

(17) J. Bouchot, Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon).

(18) Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 125-231.

(19) Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 235-420.

(20) Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan, Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin, 1826,
http://www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/n11/mode/2up

(21) George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826.
http://www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up

(22) R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826.

(23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879.

(24) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aine, Paris, 1869.

source

http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/saigon-cholon-theky-17-19-phan-3/

Những công trình kiến trúc "cổ kính" nhất ở Sài Gòn


Thứ ba, 03/01/2012, 16:47:21 PM
Những công trình kiến trúc "cổ kính" nhất ở Sài Gòn

Ý kiến của bạn Ý kiến của bạn | Gửi tin qua E-mail Gửi tin qua E-mail | Bản để in Bản để in

Dù là thành phố hiện đại bậc nhất Việt Nam, Sài Gòn - TP HCM vẫn giữ được vẻ cổ kính, trầm mặc... quyến rũ đến không ngờ.

Nhà hát cổ nhất: Nhà hát lớn TP

Nhà hát lớn TP HCM (còn gọi là Nhà hát Tây) tọa lạc trên đường Ðồng Khởi, bên cạnh là hai khách sạn lớn Caravelle và Continental. Đây là nhà hát thuộc loại lâu đời nhất, do người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900 và được xem như một địa điểm du lịch của thành phố.



Nhà hát lớn TP HCM. Ảnh tư liệu

Tuy nhỏ và kém tráng lệ hơn Nhà hát lớn Hà Nội, Nhà hát TP HCM vẫn giữ riêng nét đặc thù có một không hai, mang đậm nét kiến trúc "flamboyant" và tác giả của nó là kiến trúc sư Félix Olivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret.

Cửa mặt tiền của nhà hát chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais xây dựng cùng năm tại Pháp. Với mái vòm lớn cùng những họa tiết tinh xảo trên khu vực cửa chính, còn có tượng hai nữ thần nghệ thuật tay cầm đàn Lyre được trang trí ở cổng lối vào nhà hát. Thiết kế bên trong tân tiến với đầy đủ thiết bị âm thanh và ánh sáng hiện đại.

Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát Thành phố. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - TP HCM, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài của nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu. Ngoài tầng trệt, còn hai tầng lầu tổng cộng 1.800 chỗ ngồi.



Công trình Nhà hát lớn TP HCM hiện nay. Ảnh: internet

Nếu trước đây, Nhà hát lớn Thành phố là nơi giải trí cho các nhân vật sang trọng của Pháp, thì nay là địa điểm quen thuộc của dân Sài Gòn. Hiện nay, nhà hát là nơi tổ chức biểu diễn sân khấu chuyên nghiệp như: biểu diễn kịch nói, cải lương, ca nhạc, múa balê, dân tộc, opera cho tất cả các đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước. Tại đây có thể tổ chức những buổi mít tinh, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các hội thảo chuyên đề...

Ngôi chùa cổ nhất: Chùa Huê Nghiêm

Chùa tọa lạc ở số 208 đường Đặng Văn Bi, thị trấn Thủ Đức, huyện Thủ Đức, TP HCM; được Thiền sư Thiệt Thoại - Tánh Tường khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhìn bên ngoài, chùa Huê Nghiêm ngày nay mang dáng vẻ của ngôi chùa hiện đại, nhưng các gian phía trong, vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền.



Chùa Huê Nghiêm. Ảnh: Internet

Tên gọi Huê Nghiêm xuất phát từ việc lấy tên bộ kinh Huê Nghiêm đặt tên chùa. Lúc đầu, chùa xây ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau, bà Nguyễn Thị Hiên đã hiến đất để xây dựng lại ngôi chùa.

Tại đây còn lưu truyền câu chuyện kể về bà Nguyễn Thị Hiên như sau: khi bà Hiên sắp lâm chung, bà nhờ viết trên lòng hai bàn tay một câu bằng son đỏ: “Nguyễn Thị Hiên, làng Linh Chiểu Đông, Gia Định, chùa Huê Nghiêm, An Nam”. Năm 1821, hoàng hậu nhà Thanh (Trung Quốc) hạ sinh công chúa, trên lòng bàn tay hiện rõ những chữ bằng son đỏ hệt như ở lòng bàn tay bà Hiên. Sau đó, vua Thanh sai sứ sang Việt Nam và tìm đến chùa Huê Nghiêm để tìm xác nhận điều linh ứng trên. Sứ nhà Thanh xin trùng tu chùa và xây lại ngôi mộ cho bà Hiên, đồng thời cũng hiến tặng chùa một pho tượng quan âm bằng đồng, cao 80cm.

Lịch sử ghi rằng, chùa được trùng tu nhiều lần. Lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu (đời thứ 38 dòng Lâm Tế) tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960, 1969 và 1990, mang dáng dấp của một ngôi chùa hiện đại. Chánh điện chùa Huệ Nghiêm bài trí tôn nghiêm, trầm mặc. Chính giữa tôn trí bộ tượng Thích Ca Tam Tôn (Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền), ở phía trước điện thờ là thờ ba vị Di Đà Tam Tôn. Bên phải chánh điện là tượng Địa Tạng, còn bên trái là tượng Quan Âm. Trước hai tượng Địa Tạng và Quan Âm cũng ở hai góc bên trái, bên phải là hai tượng Hộ Pháp. Đặt trước chánh điện là tượng Di Lặc. Tất cả đều bằng gỗ. Có tượng bằng gỗ Gõ đỏ, có tượng bằng gỗ Giáng Hương bông, có tượng bằng cây Xuyên Mộc đều được tạo tác ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.

Chùa Huê Nghiêm đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam (Vietkings) công nhận là ngôi chùa có bộ cửa bằng gỗ lim khắc nổi bát bộ kim cương và thập nhị địa chi thần lớn nhất Việt Nam. Phật tử bước vào chiêm bái, nếu để ý sẽ nhận ra nét hoành tráng và đặc thù của bộ cửa mở vào chánh điện. Bộ cửa này dài 15,2m, cao 3,2m được làm bằng gỗ Lim (một loại thiết mộc) gồm 20 tấm. Trong đó, mỗi tấm cao 3,2m, ngang 0,76m. Ở hai ô cửa nằm về bên phải và bên trái của bộ cửa gồm 8 tấm khắc nổi Bát Bộ Kim Cương thì 12 tấm nằm nơi 3 ô giữa lại khắc nổi 12 vị thần biểu trưng cho Thập Nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. 8 vị Kim Cương và 12 vị thần này được những người thợ khắc nổi ngay chính giữa của từng tấm với chiều cao 1,06m, ngang 0,45m.

Bộ cửa bằng gỗ Lim này được những người thợ thực hiện trong năm 2005, tạo nét điêu khắc công phu, điêu luyện, độc đáo nơi cửa Phật.

Nhà thờ cổ nhất: Nhà thờ chợ Quán

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc ở số 120 Trần Bình Trọng, phường 2, quận 5, TP HCM; mang kiến trúc theo kiểu Gothique, trải qua hơn 100 năm nhưng vẫn uy nghi, đồ sộ nhất khu vực chợ Lớn.



Nhà thờ Chợ Quán. Ảnh: internet

Chợ Quán là một trong những họ Đạo lâu đời nhất của Tổng giáo phận TP HCM. Nơi đây đã xây dựng ngôi nhà nguyện đầu tiên vào năm 1674 do giáo dân từ miền Bắc, Trung vào xây dựng.

Sau nhiều lần xây lại nhà thờ, năm 1887, cha xứ Nicola Ham (Tài) khởi công xây dựng nhà thờ mới. Công trình này được khánh thành vào mùng 4 tết Bính Thân (1896) và tồn tại đến nay.

Khách sạn Continental Saigon

Tọa lạc ở số 132-134 Đồng Khởi (quận 1) - vị trí trung tâm thành phố với nhiều công trình kiến trúc trang nhã của Pháp, Khách sạn Continental Saigon thực sự mang đậm nét truyền thống độc nhất vô nhị của nét kiến trúc với lịch sử 121 năm. Đây là một trong những khách sạn cổ nhất tại Sài Gòn - TP HCM.



Khách sạn Continental Saigon xưa. Ảnh tư liệu

Khách sạn được xây dựng vào năm 1878 dưới thời Pháp thuộc, do ông Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây cất và dụng cụ trong nhà làm chủ. Ông Cazeau muốn mở một khách sạn sang trọng để tiếp đón các du khách từ Pháp đến Sài Gòn sau một cuộc hải hành rất dài từ "mẫu quốc". Khách sạn khánh thành năm 1880.

Năm 1911, khách sạn được sang tên cho Công tước De Montpensier, rồi sau đó năm 1930, có chủ mới là Mathieu Francini, một gangster đảo Corse, điều hành trong suốt một thời gian dài cho đến ngày miền nam Việt Nam được giải phóng (1975). Thập niên 60 - 70, chính quyền yêu cầu các cơ sở kinh doanh ghi tên bảng hiệu bằng tiếng Việt, thì khách sạn được dịch ra thành Đại Lục Lữ quán.

Tuy nhiên, sự nổi tiếng của Khách sạn Continental Saigon không phải xuất phát từ các chủ nhân của nó, mà từ vị trí và những dấu ấn mà lịch sử đã lưu lại. Trước cuộc chiến tranhh Thế giới lần thứ hai, thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (giải thưởng Nobel văn chương năm 1913), nhà văn lừng danh Andre Malraux, tác giả "Thân phận con người "(1933) từng lưu tại đây; nhà văn người Anh Graham Greene lưu trú dài hạn tại phòng 214 đã viết nên tác phẩm "Người Mỹ trầm lặng" về buổi giao thời giữa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam...

Không chỉ có thế, khách sạn còn tiêu biểu cho cả con đường Catinat (sau năm 1975, được đổi tên thành Đồng Khởi) với cụm từ Radio Catinat bởi đây là nơi tụ họp của giới báo chí truyền thông, những chính trị gia, doanh nhân bàn luận chuyện chính trường, chuyện làm ăn và thời cuộc, như: cựu Tổng thống Pháp Giscard D’Estaing, Thị trưởng Paris - cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac, cựu Thủ tướng Malaysia - ông Mohamad Mahathir, Tổng thống Thụy Sỹ, Bộ trưởng Ngoại giao Australia, diễn viên điện ảnh Niro, Catherine Deneuve, người mẫu Kate Moss... Vì lẽ thế, chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta nói: "Nếu những bức tường của Hotel Continental biết nói, chúng sẽ kể cho bạn rất nhiều điều".



Khách sạn Continental Saigon nay. Ảnh: Internet

Ngày nay, Khách sạn Continental vẫn giữ nguyên giáng vẻ thuở nào, duyên dáng và uy nghi. Gam màu trắng chủ đạo đã làm nổi bật sự thanh tao, quý phái và sang trọng của khách sạn cao 4 tầng, gồm 86 phòng đầy đủ tiện nghi và trang thiết bị hiện đại. Trong đó có 6 loại phòng là: Executive Suite, Continental Suite, Junior Suite, Oriental Suite, Deluxe & Superior. Nếu như du khách thích cảm giác ngắm nhìn màu xanh của khu vườn xanh thì có thể chọn phòng hướng vườn; còn nếu thích không gian náo nhiệt của thành phố nhộn nhịp thì có thể chọn phòng hướng phố...

Nhà thờ Đức Bà

Bên cạnh nhà thờ Chợ Quán được xây dựng vào năm 1674 thì nhà thờ Đức Bà được khởi công xây dựng ngày 7/10/1877 và khánh thành ngày 11/4/1880 - cũng được coi là công trình kiến trúc cổ kính nhất của TP HCM.

Theo dòng chảy lịch sử, vào tháng 8/1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ Đức Bà (còn gọi là Nhà thờ Lớn). Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn, với tổng chi phí xây dựng, trang trí nội thất ước tính 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.

Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.



Nhà thờ Đức Bà. Ảnh: Panoramio

Nhìn từ bên ngoài, toàn bộ nhà thờ từ mái đến tường là một màu đỏ gạch nung. Đặc điểm của loại gạch và ngói xây dựng nhà thờ là giữ nguyên màu từ ngày xây dựng đến nay và không hề đóng rêu mốc. Bên trong nhà thờ khá rộng, có sức chứa 1.200 người, với hai hàng cột chính hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc (tổng cộng 12 chiếc) tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang có khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) với các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Chưa kể, trên tường được trang trí nổi bật là 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp.

Hiện, nhà thờ Đức Bà trở thành một công trình tiêu biểu cho không gian đô thị cả vùng trung tâm Sài Gòn và do đó ý nghĩa về mặt biểu tượng nhiều khi còn vượt trên cả ý nghĩa công năng của nó. Dù không thành văn, người dân Sài Gòn và cả du khách đến thăm thành phố đều công nhận nhà thờ Đức Bà là ngôi thánh đường đẹp nhất và quan trọng nhất của giáo phận Sài Gòn, là niềm tự hào của người dân thành phố. Thậm chí, nhà thờ trở thành một điểm lý tưởng của những cặp uyên ương đánh dấu cho một cuộc sống mới.

Bưu điện Thành phố

Bưu điện trung tâm TP HCM có địa chỉ số 2, đường Công xã Paris. Đây là tòa nhà được người Pháp xây dựng với phong cách chiết trung trong khoảng 1886 - 1891 theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Villedieu cùng phụ tá Foulhoux; là công trình kiến trúc mang phong cách châu Âu kết hợp với nét trang trí châu Á.



Bưu điện Sài Gòn xưa. Ảnh tư liệu

Vẻ đẹp độc đáo của toà nhà Bưu điện Thành phố càng được tôn lên vì trước mặt nó có một công trình lộng lẫy là Nhà thờ Đức Bà với tháp chuông cao vút. Tòa nhà nổi bật với sự bố cục cân đối của các hạng mục công trình mang tính thẩm mỹ cao. Các chi tiết cân đối, chia đều ra hai bên, đối xứng nhau qua một "trục" trung tâm. Mặt tiền có kết cấu hình khối, với vòm cung phía trên các cửa. Hệ thống cột, trụ chính, phụ, mái hiên đều có kết cấu hình khối vuông. Trên mỗi đầu trụ, cột được chạm khắc hoa văn, phù điều công phu, tỉ mỉ. Ở mặt tiền tòa nhà có hệ thống đường viền, đường chỉ là những chuỗi hoa văn chạy ngang, tạo nên vẻ đẹp, sự cân đối và làm cho tòa nhà có vẻ như không cao lắm.

Bên trong tòa nhà là hệ thống vòm cung sát cửa chính và vòm cung dài bên trong. Vòm cung lớn được chống đỡ bởi bốn trụ sắt nằm bốn góc, mỗi cột chống đỡ bốn kèo sắt tỏa ra bốn phía. Vòm cung dài được chịu lực bởi hai hàng trụ sắt hai bên. Các điểm tiếp nối giữa trụ và kèo sắt được thiết kế công phu, chạm khắc thành những chi tiết có hoa văn đẹp. Với hệ thống vòm cung này, tòa nhà trở nên cao, rộng rãi và thoáng mát, thích hợp với một nơi thường có nhiều người ra vào.



Bưu điện trung tâm TP HCM ngày nay

Ngoài ra, trên vòm mái trong tiền sảnh của toà nhà có hai bản đồ lịch sử Saigon et ses environs 1892 và Lignes télegraphiques du Sud Vietnam et du Cambodge 1936.

Hiện nay, xung quanh tòa nhà Bưu điện trung tâm TP HCM còn có thêm một số công trình kiến trúc làm kho tàng, lắp đặt những máy móc, thiết bị bưu điện truyền tin hiện đại…

(Theo Đất Việt)

source
http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Dat-nuoc-Con-nguoi/Dat-nuoc-Viet-Nam/2012/01/4796324F/

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Ngày Xuân Tân cổ giao duyên


Chủ nhật 22 Tháng Giêng 2012
Ngày Xuân Tân cổ giao duyên

Ông "đồ" thời nay ngồi viết chữ nho đầu xuân
Ông "đồ" thời nay ngồi viết chữ nho đầu xuân
REUTERS/Kham
Nguyễn Phương

Đối với người Việt Nam, ngày Tết thường để lại những kỷ niệm sâu xa trong lòng. Nói đến Tết là nói đến mùa Xuân và mùa Xuân là mùa khởi đầu cho bốn mùa trong năm: mùa Xuân gợi lên những nồng nàn, những tươi xanh ấm áp … cái mùa của bao điều đẹp đẽ nở hoa, mùa Xuân của tin yêu và hy vọng và còn là mùa gợi nhớ đến những phong tục tập quán đã ăn sâu vào truyền thống của người dân Việt.

Nhân dịp đón Xuân Nhâm Thìn 2012, soạn giả Nguyễn Phương đưa chúng ta đến với vẻ đẹp của mùa Xuân qua những cung đàn giọng ca tân cổ giao duyên của các nghệ sĩ cổ nhạc và tân nhạc nhiều thế hệ.

"Ngày đầu xuân ở Việt Nam, từ thành thị đến thôn quê, mỗi gốc phố, chợ búa, mỗi thôn xóm, mỗi gia đình, từng mỗi con người, tùy theo tuổi tác và nghề nghiệp, theo khả năng và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều nô nức chuẫn bị đón những ngày tươi đẹp nhứt trong năm.

Trời vào Xuân ở Việt Nam thì không khí se lạnh, cây thay lá, hoa trổ bông, mọi người đều hân hoan chưng dọn, mua sắm và vui chơi trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Người ta đi chùa lễ bái, xin xăm, người có đạo Công giáo cũng đi lễ ở nhà thờ, nói chung ai theo đạo giáo nào cũng đều thành tâm cúng kiếng hay hành lễ theo đạo giáo đó. Người ta đi thăm viếng nhau và chúc Tết cho nhau. Cái không khí ồn ào náo nhiệt và hân hoan được thể hiện ở từng người, từng nhà, từng xóm và dân Việt Nam mình ăn Tết nhiều ngày, như câu hát xưa từng lưu lại: Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …

Xin mời quí thính giả nghe bài vọng cổ Câu Chuyện Đầu Năm do các nghệ sĩ Chí Tâm, Phi Nhung, Khả Tú ca và xin thả hồn về quê cũ, nhớ những mùa xuân thanh bình xưa, nhớ lại những giây phút vui xuân đầm ấm và hạnh phúc trong gia đình.

Bài ca Câu Chuyện Đầu Năm:

Trên đường đi lễ Xuân đầu năm,
Qua một năm ruột rối tơ tầm,
Năm mới ước vọng chờ mong
May nhiều rủi ít ngóng trông
Vui cùng pháo đỏ rượu hồng
Xuân dù thay đổi biết bao lần
Xin khấn nguyện kết chặt tình thân,
Nhìn cành lộc bỗng bâng khuâng
Năm này chắc gặp tình quân

(Nói lối) Mân mê cành lộc mới trong tay nghe lòng cũng say men mùa Xuân mới. Mai nở trên cành cao hoa đào cười trong gió hồn lâng lâng rộng mở đón xuân

(Vọng cổ Câu 1) … Nghe bước Xuân đi nhè nhẹ trong lòng , Sương khói nào vương trong nắng mới, hay chút Đông buồn còn quyến luyến bước chân. Cánh mai vàng hé nhụy mừng xuân mới, bỗng nghe động trong lòng giọt lệ cũ mùa Đông. Bỗng chợt nghe lẫn lộn nỗi buồn vui, thoáng bâng khuâng nào vương trong hồn rộn rã ….

Chí Tâm : Dạ, chào hai cô!
Phi Nhung : Dạ, chào anh !
Chí Tâm : Hai cô đi dự hội Xuân đó hả.
Phi Nhung : Cái anh này hỏi chuyện huề vốn không hà. Tới đây không đi dự hội Xuân chờ đi đâu.
Chí Tâm : Hỡi người bạn chưa quen, ngày đầu Xuân đi lễ, hai cô có thấy chăng nắng Xuân đang trải lụa đón từng bước xuân hồng… Hai cô có nghe nhiều mơ ước ở trong lòng…Khi nhẹ tay hái cành lộc mới, mà má ửng hồng, mà đôi mắt xa xăm, chắc đến Xuân này mà hai cô vẫn còn cô đơn, cho nên mới lên chùa thì thầm khấn nguyện. Lá xăm đầu năm, chắc Đức Thánh ngày có dạy, nội năm này sẽ gặp tình quân….

Thưa quý thính giả, tập tục Tết Việt Nam thật là hay, năm cũ dù có nhiều bê bối khó khăn, nhưng năm mới thì nhứt định có nhiều ước vọng chờ mong, may nhiều, rủi ít, an khang thịnh vượng và với pháo đỏ rượu nồng, mọi người cùng nhau đón thêm mùa Xuân.

Câu chuyện đầu năm có nhắc đến các cô gái đi chùa lễ phật xin xăm, trong lòng các cô chắc là cũng thầm ước mong sang năm mới sẽ có được duyên thắm tình nồng.

Việt Nam mình cũng có một tập tục rất hay là các bậc cha mẹ thường dựng vợ gả chồng cho con trong các dịp Tết. Đám cưới trước Tết là một đề tài hấp dẫn của các nhạc sĩ tân cổ nhạc, vì đó là dịp cho nhạc sĩ và ca sĩ hốt bạc khi đi ca đám cưới. Tuy nhiên việc gả cưới trong dịp Tết cũng là một nỗi khổ của dân nghèo, khi họ không đủ tiền mua sắm trong dịp Tết, mà lại phải đi vay mượn một số tiền để làm quà tặng cho cô dâu, chú rể khi họ được mời đi dự tiệc cưới.

Bài tân cổ Rượu Cưới Ngày Xuân (nghệ sĩ Kim Tử Long trình bày)
(Ca nhạc rap )

Tết quê mình năm nay quá chịu chơi,
Tiếng nổ vang hai đám cưới qua mời
Thì khăn đống, áo dài, đi nhậu ké
Mừng đàn gái đầu Xuân thêm chú rể
Bên gia đình chàng trai có cô dâu
Hai ông bà hạnh phúc thích như nhau,
Hai trẻ đẹp đôi thì cô chú cũng đẹp lòng.
Chén rượu này tôi chúc cho đàn trai
Chén thứ hai tôi chúc cho đàn bà
Nè đàn trai, tôi mời anh một chén
Mời Đàn gái cụng ly, ta góp đẹp
Thêm ly này tôi chúc cháu Tân Lang
Thêm ly này tôi chúc gái Giai Nhân
Chúc hết làng ta đều ăn Tết rần rần …

Nói lối : … Anh Hai ôi! Cứ mỗi lần Tét nhứt đến nơi thì tôi lại nhận được ba bốn cái thiệp mời ăn đám cưới - Mới đi cho đám cưới của con gái anh Tư rồi lại tới con trai của vợ chồng chị Bảy, rồi tới con trai của anh chị Thảo Nguyên nơi xứ lạnh….

Vọng cổ : …. tình nồng …xin anh nghe tôi nói mà thông cảm cho bạn mình … hễ mỗi lần tôi thấy cái thiệp ai mời ăn đám cưới thì trời ơi lần đó mổ hôi mồ kê nó tuôn ra ào ào vậy đó anh Hai ôi. ( SL ) Anh nghĩ coi trong xã mình suốt tháng quanh năm tôi chỉ biết đổi bát cơm bằng công sức của mình, làm việc nhọc nhằn mà tiền công chẳng có bao nhiêu nên làm được bữa nào là tôi xào tiêu bữa nấy.

Vọng cổ : Tôi nhớ có câu thơ vầy: “ Có tới có hơn, hơn tới có. Không đi không phải, phải đi không “mà tôi ái ngại trong lòng, … Nếu như mình không đi thì còn đâu là tình nghĩa láng giềng … Chỗ làng xóm với nhau, bà con mời thì phải tới, ngặc vì tiền hõng có, hõng lẽ tới đó ăn no bụng rồi về coi sao được phải vậy hông anh Hai . ( SL) Bởi vậy đêm hôm rồi tôi nằm trằn trọc không yên, ngồi hút thuốc tới khi trời sang trắng, thôi thì lác qua đó rồi tùy cơ ứng biến, giữa tiệc đông người đừng để bị cười chê.

Nhạc : Một… Hai… Ba… Vô !
Xin mời cô bác ta cùng giải khát,
Xin uống mừng xuân sang,
Quê mình sang trang,
Xin đừng sợ tốn… Cho tôi nhậu tràn… Vô… vô .. vô!
Cô nào ở góa… Anh nào ở vá…
Năm mới làm ăn ra… Tôi thề xông pha…
Qua nhà mai mối…Cho ấm êm tình già … Vô! Vô!,… Vô!
Trước khi tới đám tân hôn tôi chạy qua nhà thằng Tư Hú mượn cái áo mặc vô cho tươm tất, chạy qua chú Hai Mẹo mượn đôi giày mới rồi mượn cậu Năm cái nón để

Vọng cổ : … che đầu … Tôi mượn tùm lum làm cả xóm phát rầu… Đâu đó xong xuôi, nhắm tới nhắm lui coi bộ cũng hơi được được, tôi bèn lên đường qua xã Trà Biên. ( SL ) Trời đất quỷ thần ơi, đôi giày nó chật như nêm, mới đi có một khoảng đường gót lột da đau gần chết nhưng tôi cũng ráng bậm môi đi riết kẻo bà con cô bác họ đang chờ.

Vọng cổ :
Uống đi nào, ly tôi hết rồi đây
Đám cưới vui ai đâu có la rầy
Nè ! Anh Tám nhìn chi chị Sáu,
Cụng ly với bà Suôi đi cái đã
Xuân năm này anh đám cưới cho con
Rồi sang năm có bạn già nào cưới tiếp cho vui
Xuân của lòng ta là không có tuổi già!
Chú rể cô dâu tới chào quan khách, tôi lẹ lẹ đưa ra một cái gói lì xì ( SL )
Tôi làm bộ ôm hôn chú rể một cái rồi tôi kề tai nói nhỏ cho nó nghe:” Ê! Này cháu…Có hai vé số trong này, chúc vợ chồng mày thành triệu phú cho vui.

Thưa quý thính giả, vừa rồi quý vị đã thưởng thức giọng ca của nghệ sĩ Kim Tử Long. Kim Tử Long đã diễn tả đúng thực trạng của một số người quá nghèo, nhưng ở trong một cái xã hội mà khoảng cách giữa người giàu và kẻ nghèo quá xa như ở Việt Nam, thì những người nghèo không những phải vay mượn tiền bạc, mà còn phải vay mượn cái hình thức khá giả một chút, khi họ buộc phải có mặt nơi những người giàu và kẻ khá giả đang sống.

Ngày Tết ở Việt Nam, dân chúng già trẻ bé lớn đều nô nức chuẫn bị đón những ngày tươi đẹp nhứt trong năm.

Nghệ sĩ cải lương cũng không ngoại lệ, nhưng nghệ sĩ có cách ăn Tết khác người thường. Khi mọi người vui Xuân, chơi Tết thì người nghệ sĩ phải biểu diễn, cống hiến niềm vui cho mọi người. Vậy nên từ ngày 25 tháng chạp âm lịch, sau suất diễn cuối cùng trong năm, bầu gánh hát, soạn giả, nghệ sĩ và công nhân sân khấu tập trung trên sân khấu, trước bàn thờ Tổ nghiệp, làm lễ cúng và đưa ông Tổ về thiên đình, giống như người dân bình thường cúng và đưa ông Táo về trời ngày 23 tháng chạp. Sau đó là tiệc cuối năm, có ê hề rượu thịt, có đờn ca tài tử để nghệ sĩ vui chơi đón Tết trước. Cuộc vui kéo dài thâu đêm suốt sáng. Ai say thì lăn ra trên sàn diễn mà ngủ, đợi sáng maì người nhà đến đưa về. Từ 25 tháng chạp đến 30 tháng chạp, các đoàn hát đều nghĩ hát để cho nghệ sĩ có thời gian lo cho gia đình, hoặc đi tảo mộ, hoặc về quê thăm viếng bà con.

Đêm 30 Tết, người dân thường cúng rước Ông Bà thì người nghệ sĩ cúng rước ông Tổ nghề hát để rồi trưa ngày mồng 1 Tết, đoàn hát hát khai trương tuồng mới nhân dịp đầu năm mới.

Trước năm 1975, các đoàn hát khai trương những tuồng rất hạp với ý của khán giả như đoàn Thanh Minh Thanh Nga thì có tuồng "Tình Xuân Muôn Tuổi", đoàn Dạ Lý Hương có vở "Đại Phát Tài", đoàn Kim Chưởng có vở "Bến Hẹn Chiều Xuân", đoàn Kim Chung có vở "Suối Mơ Rền Pháo Cưới", đoàn Minh Tơ có vở "Lưu Bị Cầu Hôn Giang Tả", trước khi hát tuồng chánh, đoàn Minh Tơ còn hát thêm màn "Lục Quốc Phong Tướng".

Tuồng hát hát Tết phải: Vui, Hên, Có Hậu, không được có cảnh chết chóc, đổ máu hay chia ly. Tôi còn nhớ ông bầu Long có nhiều đoàn Kim Chung, nên không dễ gì kiếm được nhiều tuồng vui, hên và đoàn tụ như ý của khán giả đi coi hát để bói tuồng, nên khi đoàn Kim Chung 2 hát Tết ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, tuồng "Cỗ Xe Độc Mã" của soạn giả Thể Hà Vân phải đổi tựa "Cỗ Xe Song Mã".

Tuồng hát ngày Tết tránh cảnh đổ máu, chia ly nhưng có một năm, không phải là loại tuồng có chia ly đổ máu mà chính là cả thành Sai gòn và các tỉnh thành khác đã xảy ra cảnh chết chóc chia ly ngay trong những ngày Tết. Đó là cái Tết Mậu Thân máu lửa năm 1968, mà nghệ sĩ Văn Hường nhắc đến trong bài ca vọng cổ hài "Văn Hường Đội Sớ về trời".

Nhân dịp đầu xuân Nhâm Thìn 2012, Nguyễn Phương xin kính chúc quý thính giả một năm An Khang Thịnh Vượng, Gia đình hạnh phúc và một năm mới đầy may mắn.

source

RFI Vietnamese